Thầy Sliêu họ mặc áo dài màu
xanh, khoác áo thêu hình rồng ở ngoài, tay trái cầm trượng và tù và, tay phải
gõ thanh gỗ lên bàn. Sau một hồi nhảy múa, thầy thổi tù và, cầm chén rượu hắt
ra sàn nhà và xin âm dương, rồi tiến ra sân làm lễ thỉnh Ngọc Hoàng về chứng
giám cho việc “khai thiên lập địa”.
Trong lúc đó, gia chủ đặt một bàn cúng nhỏ giữa nhà, trên có bày một con gà luộc, 11 cái chén và thắp nến. Một thầy ngồi trước bàn này đọc bài cúng để mở đường làm ăn. Còn thầy Khoi tàn làm phép cầu may, cầu lộc. Chủ nhà cùng thầy nâng chiếc chiếu và nia lúa (đã chuẩn bị sẵn từ trước) lên để báo với tổ tiên và thổ địa. Sau đó hai thanh niên cầm thanh gỗ và chuông múa, các thầy khác đọc sách cúng.
Người nhà mang dao
thớt lên chặt gà. Theo quan niệm của người Dao, đây là con gà mang ý nghĩa mở
đường cho gia đình làm ăn nên chỉ đàn ông trong nhà và thầy cúng mới được ăn.
Ba cha con gia chủ phải ăn hết con gà tại chỗ, với hy vọng trong năm tới, công
việc làm ăn sẽ suôn sẻ, thuận lợi.
Bên ngoài sân, người
ta dựng một cái giàn đốt nhang. Gia chủ (bố hoặc con trai) treo lộc (là một
cành lúa khô) lên một chiếc cân. Thầy Sliêu họ
làm phép vào bát nước, rồi phun vào cành lộc để chiêu
mùa, cầu mong sang năm làm ăn phát tài. Khi làm phép phải cúng rất
kiiẽ, không để ai nghe thấy. Sau đó thầy dội cả bát nước lên cành lộc và xin âm
dương.
Cành lộc được mang
vào nhà để thầy Khoi tàn tiếp tục làm lễ
chiêu mùa (chiêu phúc, chiêu lộc), với mục đích giữ gìn thóc gạo, phúc lộc cho
gia đình. Cách thức làm lễ này như sau: thầy cúng và bốn người khác cùng đặt
tay lên một cây trượng. Mỗi người cầm một nhánh lúa nhỏ, múa xung quanh cây trượng
trong tiếng chiêng trống rộn ràng. Múa được vài ba vòng, họ buộc túm các cành
lúa lại trên đầu cây trượng, rồi lại ngắt năm nhánh lúa tiếp theo cho năm người
cầm. Việc này lặp lại hai lần. Họ tiếp tục múa xung quanh cây trượng theo chiều
kim đồng hồ, rồi quay ngược lại. Điệu múa cuối cùng, mỗi người cầm một thanh gỗ
nhỏ múa mấy vòng rồi xoay lưng vào nhau, đồng loạt thả thanh gỗ xuống (cũng lặp
lại hai lần), cũng là báo hiệu lễ chiêu mùa đến đây kết thúc.
Thầy Sliêu họ từ từ tiến vào
nhà, đứng trước bàn thờ tố tiên, một tay cầm trượng, một tay cầm tù và, cùng
người con trai chủ nhà cầm cờ nhảy múa chiêu binh; các thầy khác đồng thanh đọc
bài cúng. Thầy Sliêu họ thực hiện việc
cúng khấn Bàn Vương, các vị thánh và gia tiên về tại bàn thờ tổ tiên rồi làm
phép thu âm binh vào một con dao nhỏ (đoản kiếm), đặt đoản kiếm lên bàn chân và
hất mạnh lên bàn thờ. Hành động này được gọi là đá kiếm, nếu thanh kiếm rơi vào đúng ngăn thờ nghĩa là
mọi việc đã tốt đẹp. Chiêng trống nổi lên dồn dập. Trong khi các thầy đồng
thanh đọc sách cúng, thầy Sliêu họ rót rượu vào
chén trên bàn thờ và chia tiền vàng, rồi đem hoá.
Người ta mang hai giỏ
bánh xôi cùng hai hũ rượu bày trên một bàn cúng nhỏ đặt giữa nhà để mời âm binh
ăn uống. Hai thanh niên có nhiệm vụ cầm trượng múa chiêu âm binh về. Hai thầy
chính đám một tay cầm thanh gỗ, một tay cầm chuông ngồi cúng tại bàn này đổ báo
với thánh sư, ông bà ông vải kết thúc công việc, cảm ơn ông bà ông vải đã chứng
nhận mọi việc và phù hộ cho gia đinh.
Một đĩa gà luộc cùng năm chén rượu được đặt lên bàn cúng
chính. Thầy Sliêu họ cùng thầy Khoi tàn chia tiền vàng và tiếp tục đọc bài
cúng khá lâu, rồi xin âm dương và rót rượu lần nữa. Một vài thanh niên vào hạ
toàn bộ kiếm, rìu cùng cờ ở trên bàn cúng lớn xuống. Hai thầy hoá toàn bộ tiền
vàng và cờ, xong lại cầm chuông múa hát quanh đống lửa.
Tiếp theo, hai thầy cầm hai cây trượng, một người rót ra bốn
chén rượu (mỗi thầy cầm hai chén và uống hai ngụm để tạ ơn thánh sư của mình).
Sau khi múa thêm một lát, hai thầy bốc hai nắm tro nhỏ tung lên bàn.
Trước khi kết thúc những nghi lễ chính của Tết nhảy, người
con trai gia chủ cầm một chiếc chiếu múa giữa nhà, đồng thời, thầy Khoi tàn cũng cầm dải vải nhảy múa, sau đó gia
chủ trải chiếu ra, cả hai cùng quý lên chiếu, nhấp một ngụm rượu rồi phun lên
chùm lúa lộc, rồi lại cầm chiếu đứng lên nhảy (lặp lại tám lần).
Khi người nhà mang thủ lợn lên để cúng, hai thầy chính đám tiếp
tục cầm chuông múa và đọc bài cúng, các thầy khác đọc hỗ trợ.
Thầy Sliêu họ cầm ba nén hương lên làm phép xong đặt
bên cạnh thủ lợn, múa một vài động tác nhanh rồi lại cầm hương lên lặp lại hành
động vừa rồi. Sau đó mỗi thầy cầm một chén rượu vừa cúng vừa rung chuông, và lần
lượt đem chia rượu lộc cho mọi người. Xong xuôi, thầy hạ sền tàu, cởi áo rồng. Một thầy khác chia tiền
vàng và đem hoá, còn người nhà hạ tranh Thánh xuống, cuộn lại và cất giữ hết sức
cẩn thận.
Lễ cúng Bàn Vương được
tiến hành ngay sau đó.
Người Dao quan niệm, Bàn Vương là thủy tổ của mình, do vậy lễ
cúng Bàn Vương rất phổ biến ở tộc người này, để tưởng nhớ công ơn của Bàn
Vương.
Người nhà khiêng một con lợn đã làm thịt sạch sẽ đặt lên bàn,
mỗi đầu để 3 cặp bánh, 8 cái chén (trong đó có 1 chén nước), 1 nắm gạo.
Thầy Sliêu họ mặc áo cúng trong cùng, áo dài xanh ở
ngoài, đứng trước bàn cúng, đọc xong một câu lại rung một hồi chuông, với nội
dung: trong quá trình làm lễ có điều gì sơ suất, xin được Bàn Vương lượng thứ.
Cúng xong một lượt,
thầy hoá tiền vàng, rồi cầm chuông tiếp tục đọc bài cúng. Đợi bài cúng kết thúc,
mọi người dọn dẹp mâm lễ; áo thầy cúng được thu xếp lại.
Lễ cúng ông bà ông vải là công đoạn cuối cùng của Tết nhảy,
diễn ra khá nhanh gọn, nhằm mục đích tạ ơn tổ tiên và ông bà ông vải đã phù hộ
cho lễ tết diễn ra thuận lợi. Trong lễ này có hai bàn cúng, phân bố như sau:
- Bàn ngoài: dành cúng ông bà ông vải, lễ vật gồm: miếng thịt lợn
luộc đặt trên lá chuối, 5 cái chén, 1 chén nước; 1 hũ rượu được đặt ở chân bàn.
- Bàn trong: dành cúng thổ địa và các thánh sư ở ngoài, lễ vật
gồm: miếng thịt lợn luộc đặt trên lá chuối, 9 cái chén, 1 chén nước.
Hai thầy chính đám đọc
bài cúng, các thầy bên ngoài đọc hỗ trợ, thầy rót rượu cái vào các chén, rồi
hoá tiền vàng.
Tết nhảy đến đây cơ
bản hoàn thành.
Việc mô tả một cách
chi tiết Tết nhảy của người Dao Quần Chẹt trên đây cho thấy trong bối cảnh hiện
nay, khi các giá trị văn hoá hiện đại đang ngày một chiếm ưu thế, thì vẫn còn
những giá trị văn hoá truyền thống được bảo lưu khá nguyên vẹn. Mặc dù việc chuẩn
bị cho Tết nhảy đòi hỏi đầu tư nhiều thời gian, công sức và vật chất song người
Dao vẫn mong chờ và tiến hành tổ chức một cách nghiêm túc, trang trọng.
Chúng ta biết rằng, con người là nhân tố đầu tiên và quyết định
sự hình thành, tồn tại, phát triển hoặc biến mất của mọi hiện tượng văn hoá. Mỗi
cộng đồng người trong quá trình sinh sống đều xây dựng được cho mình nền văn
hoá riêng. Chính họ sẽ chắt lọc và giữ gìn, phát triển những tập tục, nghi lễ
văn hoá mà họ cho là cần thiết, quan trọng đối với họ, đồng thời đào thải, loại
bỏ dần những sinh hoạt văn hoá không còn phù hợp. Chúng tôi cho rằng, các sinh
hoạt văn hoá truyền thống bị mai một hoặc mất đi là do các nguyên nhân chủ yếu
sau:
- Chiến tranh, nghèo đói, không có điều kiện tổ chức;
- Không có người thực hành, truyền dạy;
- Bản thân người dân không hiểu được giá trị của sinh hoạt văn
hoá đó;
- Sự lấn át của văn hoá ngoại lai, văn hoá hiện đại;
- Không còn phù hợp với đời sống;
- Bị cộng đồng chối bỏ.
Tết nhảy của người Dao Quần Chẹt ở Ba Vì sở dĩ còn được lưu
giữ, là bởi chính những người dân còn cần đến nó. Với người Dao, Tết nhảy giữ vị
trí hết sức quan trọng trong đời sống văn hoá, tâm linh. Đó không chỉ là dịp để nghỉ ngơi, giải trí, quan trọng hơn, còn
là sinh hoạt văn hoá độc đáo có ý nghĩa tích cực
trong việc tăng cường tính cố kết cộng đồng. Mối quan hệ gắn bó giữa các thế hệ,
các gia đình, các thành viên trong làng bản qua đó càng trở nên mật thiết. Tết
nhảy còn là môi trường để đánh giá thái độ sống của các cá nhân.
Bởi mỗi gia đình, dòng họ khi tổ chức Tết nhảy đều lựa chọn những người có uy
tín, đáng tin cậy trong bản/làng để nhờ giúp đỡ, thậm chí trước kia, chỉ chọn những người
có gia đình tốt, ăn nên làm ra, hiện nay chủ yếu nhờ những thanh niên nhanh nhẹn, ham
hiểu biết. Bản thân những người này cũng rất tự hào khi được tham gia Tết nhảy,
và cố gắng tận tâm tận lực với công việc được giao phó.
Trong quá trình diễn
ra Tết nhảy, thường phụ nữ không tham gia vì sợ trùng vào các ngày kiêng kị
trong tháng. Những người tham gia nhảy, múa phần lớn đều đội mũ, không kể xấu đẹp,
để thể hiện sự trang trọng, tôn kính, khác với những ngày bình thường.
Ở góc độ khác, chúng tôi nhận thấy, Tết nhảy của người Dao hội
tụ trong đó rất nhiều khía cạnh văn hoá. Về mặt hình thức, Tết nhảy là sự kết hợp độc đáo của các động
tác thân thể (nhảy, múa) và âm nhạc, đồng thời gắn liền với tín ngưỡng tâm
linh. Trong các phần việc của Tết nhảy đều có sự góp mặt của văn hoá ẩm thực, thể hiện qua cách lựa chọn lễ
vật dâng cúng, qua cách thức chế biến các món ăn truyền
thống cũng như cách bày biện mâm cỗ; có sự hiện diện của văn hoá ứng xử, thể hiện qua thái độ tôn kính tổ
tiên, ông bà, cha mẹ. Người Dao coi Tết nhảy là một dịp để bày tỏ lòng biết ơn
đối với các bậc tiền bối. Những vật phẩm dâng cúng và các nghi lễ cúng bái đều
chứa đựng trong đó niềm hi vọng, cầu mong tổ tiên phù hộ cho con cháu khoẻ mạnh,
bình an, làm ăn phát tài phát lộc.
Tết nhảy còn bao hàm cả văn hoá giáo dục,
bởi về nguồn gốc sâu xa, Tết nhảy tượng trưng cho hình thức giáo dục con cháu,
luyện binh bảo vệ mùa màng, bảo vệ dân tộc. Tính giáo dục của Tết nhảy chủ yếu
thể hiện qua hai khía cạnh: thứ nhất, ý thức “cha truyền con nối”, các thế hệ
cha chú thường xuyên nhắc nhở, chỉ dẫn cho con cháu cách thức làm lễ; thứ hai,
con cháu qua đây cũng được ôn lại nguồn gốc, lịch sử tộc người, được răn dạy một
cách sâu sắc lòng tôn kính, hiếu thuận với tổ tiên.
Những tri thức dân gian (các bài thuốc nam truyền thống,
tập tục sản xuất) và tín ngưỡng tâm linh (chiêu mùa, múa rùa âm, thờ
ma bếp) cũng ít nhiều hiện diện trong Tết nhảy.
Như vậy, chúng ta có thể phần nào hình dung được đời sống, lịch
sử của dân tộc Dao qua Tết nhảy. Những vật dụng được sử dụng (kiếm, búa, đao,
tranh Thánh...) và các điệu múa, điệu nhảy, bài cúng lần lượt phản ánh một cách
sinh động hoạt động sản xuất và đấu tranh của người Dao (múa xuất binh, nhập
binh, múa rùa) trong tiến trình chinh phục tự nhiên và tạo lập xã hội. Đặc biệt,
trong cộng đồng người Dao nơi đây còn lưu giữ được khá nhiều sách cổ. Một số cuốn
sách cúng được các thầy cúng sao chép lại và cất giữ cẩn thận. Điều này cho thấy
bản thân người Dao đã có ý thức bảo tồn những giá trị văn hoá quý báu của cha
ông họ. Việc nghiên cứu nguồn tư liệu này, theo chúng tôi, cũng là việc làm cần
thiết.
Hiện nay, đời sống của
đồng bào Dao đã được cải thiện đáng kể, kinh tế - văn hoá địa phương ngày một
phát triển. Những thanh âm và sắc màu hiện đại đã in dấu rõ nét trong đời sống
sinh hoạt của đồng bào nơi đây. Đặc biệt, sự lan truyền mạnh mẽ của các phương
tiện truyền thông đã mở thêm cho người Dao nhiều cánh cửa giao lưu, tiếp cận với
văn hoá bên ngoài. Đó là động lực của sự phát triển, tiến bộ xã hội, đồng thời
cũng là trở lực cho văn hoá truyền thống người Dao.
Trong quá trình phát
triển, mỗi dân tộc không thể quay lưng với truyền thống, song cũng không thể chối
bỏ hiện tại. Bởi yếu tố truyền thống là nền tảng làm nên bản sắc văn hoá của mỗi
tộc người, còn sự tiếp nhận yếu tố hiện đại là một tất yếu khách quan để có thể
hoà nhập được với xu thế phát triển chung, vấn đề là làm thế nào đề văn hoá
truyền thống vẫn có chồ đứng trong lòng xã hội hiện đại, vẫn là điểm tựa trong việc hình thành nhân cách cá nhân và lối sống cộng
đồng. Tất nhiên, để thích ứng với môi trường hiện đại, các sinh hoạt văn hoá
truyền thống cũng phải có những cải biến, điều chỉnh phù hợp. Thực tế cho thấy,
Tết nhảy của người Dao hiện nay đã có một số biến đổi, một số thủ tục rườm rà,
kéo dài trong quá trình hành lễ được cắt bỏ (như rút gọn thời gian tổ chức từ
ba năm xuống một năm), việc tổ chức ăn uống cũng giản tiện, tiết kiệm hơn.
Qua phỏng vấn, đa số đồng bào Dao đều bày tỏ mong muốn Tết nhảy
sẽ được bảo lưu và tiếp tục thực hiện. Nhiều thanh thiếu niên coi Tết nhảy là dịp
lễ quan trọng để họ tìm về cội nguồn dân tộc, và có thêm những bài học quý báu
về văn hoá của tộc người mình. Với những thầy cúng trẻ, đây là cơ hội để họ “học
việc” và “thử việc”. Đồng bào tin rằng: Tết nhảy sẽ không mất đi, bởi từ lâu,
nó đã trở thành một sinh hoạt văn hoá cộng đồng không thể thay thế. Họ cần đến
Tết nhảy, như một trong những hình thức để thể hiện lòng tri ân đối với cha ông
họ, làm “vui lòng” những người đã khuất và cũng là nơi để thỏa mãn những niềm
tin, những ki vọng của họ về cuộc sống, về công việc làm ăn.
Sự lên ngôi của các yếu tố văn hoá hiện đại cùng khoa học
công nghệ đã đẩy các giá trị văn hoá truyền thống của các dân tộc đứng trước
nhiều thách thức: một là phải có những biến đổi nhất định, hợp lưu để tồn tại
và đồng hành cùng xu thế phát triển; hai là dần bị mai một, thậm chí mất đi. Do
vậy, việc bảo tồn các hình thức, nghi lễ văn hoá truyền thống của các dân tộc
thiểu số càng trở nên khó khăn hơn, đòi hỏi những nỗ lực lớn hơn của cộng đồng,
của giới nghiên cứu và các nhà hoạt động văn hoá. Đó là vấn đề đang đặt ra không
chỉ đối với văn hoá truyền thống người Dao ở Ba Vì, Hà Nội (qua trường hợp Tết
nhảy) mà còn là vấn đề chung của tất cả các dân tộc thiểu số trên cả nước.
Từ thực tế của người Dao ở
Ba Vì, chúng tôi cho rằng, mục tiêu giữ gìn, phát huy giá trị văn hoá truyền thống
của các dân tộc thiểu số trước hết phải bắt nguồn từ nhân tố con người và vì con người.
Quá trình hoạch định chính sách bảo tồn văn hoá cần nhấn mạnh đến việc lắng nghe
ý kiến của người dân và nâng cao nhận thức của cộng đồng đối với những giá trị
văn hoá mà họ đã tạo dựng và đang sở hữu. Đối tượng chính cần hướng tới ở đây
là thế hệ trẻ. Bởi họ là những người chịu tác động nhanh nhất, trực tiếp nhất từ
văn hoá hiện đại. Nếu thiếu sự quan tâm, định hướng, họ sẽ dần đứng xa với văn
hoá truyền thống. Trách nhiệm của ông bà, cha mẹ là trao truyền lại kinh nghiệm,
vốn văn hoá cho con cháu. Bởi lẽ, bảo tồn văn hoá đòi hỏi sự chia sẻ của mọi
thành viên trong cộng đồng q
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.