Thứ Năm, 6 tháng 8, 2020

TẾT NHẢY CỦA NGƯỜI DAO TRONG DÒNG CHẢY HIỆN ĐẠI - Nguyễn Ngọc Thanh

        

        

Cùng với những bước chuyển mình ngoạn mục của kinh tế, khoa học những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, không gian văn hóa kĩ thuật ngày càng được mở rộng, ngược lại, không gian văn hóa truyền thống lại đang bị “giải thể” mạnh mẽ. Hàng loạt biểu tượng của kỷ nguyên công nghệ, truyền thông đang dần thay thế cho những biểu tượng truyền thống của văn minh nông nghiệp lúa nước. Rõ ràng, hiện đại hoá vừa là tác nhân thúc đẩy văn hoá tiệm cận với những đỉnh cao mới, đồng thời cũng gây áp lực đa chiều cho văn hoá truyền thống.

Song điều đáng nói là, trong dòng chảy mạnh mẽ của đô thị hóa, hiện đại hóa, vẫn tồn tại những mạch ngầm truyền thống đóng vai trò chủ lưu đã và dang tạo xây, bồi đắp cho nền tảng văn hoá của mỗi nhóm người, mỗi dân tộc, mỗi quốc gia. Trường hợp Tết nhảy của người Dao Quần Chẹt ở đây được chúng tôi soi chiếu từ góc độ nhân học - dân tộc học, để tìm kiếm câu trả lời cho những băn khoăn, nghi tồn về tương lai của văn hoá truyền thống trong bối cảnh “sự biến đổi, giao thoa, đấu tranh và cả sự trộn lẫn, đảo lộn các giá trị đang diễn ra gay gắt, sâu sắc”[1] chưa từng có.

Tết nhảy (Nhiàng chầm đao) được chúng tôi miêu tả dưới đây là của họ Bàn, tổ chức tại gia đình ông Bàn Văn Khoa (thôn Yên Sơn, xã Ba Vì, huyện Ba Vì), từ mồng 8 đến mồng 10 tháng Chạp năm 2011, hiện đã có một số biến đổi so với thời sơ khởi, song những yếu tố cơ bản nhất vẫn được duy trì khá nghiêm ngặt.

              Về nguồn gốc, đa số tài liệu thư tịch và tư liệu điền dã đều cho rằng: xưa kia, 12 họ Dao vì nhiều lý do: loạn lạc, thiếu đất đai, bị nhà nước phong kiến Trung Quốc bóc lột đã lên thuyền di cư sang Việt Nam, giữa đường gặp sóng to gió lớn, người Dao cầu khấn Bàn Vương và tổ tiên cứu giúp, họ hứa rằng, nếu tai qua nạn khỏi, vào được đất liền sẽ làm lễ tạ ơn. Tổ chức Tết nhảy chính là cách để người Dao ghi nhớ hành trình khổ nạn năm xưa và tri ân Bàn Vương, tổ tiên đúng như lời đã hứa[2]. Một số người già trong thôn còn cho rằng, Tết nhảy xuất phát từ những hoạt động chuẩn bị cho chiến tranh chống giặc ngoại xâm và chống tà ma của tộc người Dao. Đó là dịp để khơi lại phong tục dân tộc, để “khao” tổ tiên, ông bà ông vải, mong tổ tiên tiếp tục phù hộ cho con cháu[3].

Tết nhảy không diễn ra hàng năm, chu kì thông thường là 12-15 năm, hoặc 20 năm, nhưng nhất thiết không vượt quá 30 năm. Điểm đặc biệt là Tết nhảy được tổ chức theo từng dòng họ, mỗi họ tùy theo lời hứa năm xưa mà có chu kỳ tổ chức khác nhau, và chỉ gia đình nào giữ nhà thờ tổ mới được đảm nhận. Có khi một gia đình, có khi cả mấy hộ trong một họ tổ chức. Nếu là mấy hộ tổ chức thì chi phí đóng góp được phân bổ cho từng hộ, nếu một gia đình tổ chức thì phải tự lo toàn bộ chi phí. Trước đây, nhà nào làm Tết nhảy phải thực hiện ba năm liên tiếp, năm thứ nhất làm một ngày một đêm, năm thứ hai làm hai ngày hai đêm và năm thứ ba làm ba ngày ba đêm. Hiện nay, để giản tiện và phù hợp hơn với đời sống, người Dao Quần Chẹt ở Yên Sơn chỉ tổ chức vào một năm trong vòng ba ngày ba đêm.

Công việc chuẩn bị cho Tết nhảy hết sức công phu, kéo dài có khi mấy năm. Truớc hết phải lo phần trang phục. Để có bộ trang phục đầy đủ cho Tết nhảy phải mất từ 5-7 năm chuẩn bị, gồm lễ phục thầy cúng và quần áo cho mọi người trong giia dinh. Trang phục sử dụng xong được cất gói cẩn thận, để dùng cho những lần tiếp theo, đến khi cũ hỏng mới thay bộ khác.

Một trong những vật dụng quan trọng nhất dùng trong Tết nhảy là tranh Thánh. Những bức tranh này thường được người Dao Ba Vì đặt làm riêng ở Hà Đông. Do tranh Thánh có ý nghĩa rất thiêng liêng, nên trước khi mua tranh, người Dao thường phải xem tuổi chủ nhà. Sau khi mua về, phải làm lễ “Khai quang”, tổ chc ăn uống suốt một ngày đêm. số tranh này được coi như “bảo bối” của gia đình, lưu giữ từ đời này qua đời khác[4].

   Một Tết nhảy hoàn chỉnh thường rất tốn kém, do vậy các gia đình khi có đủ điều kiện mới tổ chức. Họ phải nuôi lợn trong khoảng một năm (ít nhất phải có 2 con cân nặng chừng 1 tạ), nuôi gà, mua lương thực, mua giấy (để làm tiền vàng).

              Trước khi chính thức tổ chức Tết nhảy, gia đình phải họp bàn, nhờ thầy trong làng đến cúng 2-3 lần, thịt hai con gà làm lễ để xin phép tổ tiên và bố mẹ mình. Lần cúng thứ nhất, xin ông bà phù hộ để nuôi gà, lợn; lần cúng thứ hai, báo cho ông bà biết con cháu đã chuẩn bị xong; lần cúng thứ ba: báo ngày tổ chức tết.

              Ngày đầu tiên, các thành viên trong gia đình và những người trong xóm được nhờ giúp việc có mặt từ sớm để chuẩn bị. Ngoài sân, một nhóm đàn ông tập trung làm kiếm, búa gỗ (dùng trong lễ múa kiếm); một nhóm giã nếp làm bánh giày; một nhóm làm ngựa giấy, cờ giấy; một nhóm phụ trách tiền vàng (cắt, đóng triện). Trong bếp mọi người chuẩn bị cỗ bàn.

              Trong nhà, bên cạnh bàn thờ tổ tiên, người ta lập ba ban thờ nhỏ xếp ngang nhau: ban ở giữa gồm một thủ lợn, một con gà luộc, năm chén rượu, một chén nước, sáu chiếc bánh giày, dành để cúng các cụ trong gia đình; ban bên trái lễ vật bày giống gian giữa, dành cúng bố mẹ gia chủ (đã khuất); ban bên phải cũng có lễ giống ban bên trái, thêm một túi nhỏ đựng gạo, tiền, dành cúng những ông tổ khai sinh ra dòng họ. Mỗi mâm lễ đều đặt tiền vàng. Trên tường trang trí tranh Thánh, theo người Dao, loại tranh này chỉ được treo vào những dịp quan trọng trong năm như Tết nhảy, lễ cấp sắc, tạ mả. Nội dung các bức tranh: gồm hình ảnh người dân và hình ảnh các vị thánh sư người Dao từ đời xưa, minh họa đời sống sinh hoạt làm ăn, phong tục tập quán của người Dao. Có thể coi đây là những bức vẽ tái hiện lịch sử xã hội Dao qua các thời kỳ.

Có rất nhiều thầy cúng đến tham dự Tết nhảy, trong đó có 2 thầy chính đóng vai trò quan trọng nhất là: Sliêu họ - đảm nhận điều khiển toàn bộ lễ tết và Khai tàn - chủ yếu phụ trách phần nhảy, múa. Các thầy khác thay phiên nhau giúp việc, hỗ trợ.

              Lễ cúng đầu tiên được gọi là Tết trả lễ, diễn ra trong khoảng hơn một giờ đồng hồ. Người Dao quan niệm: đầu năm đã hứa hẹn những gì thì cuối năm phải cúng trả lễ để cảm ơn tổ tiên và xin tổ tiên phù hộ cho năm tới mạnh khỏe, làm ăn thuận lợi. Tết trả lễ được thực hiện hằng năm, thường làm vào dịp Tết Nguyên đán, nếu năm nào làm Tết nhảy thì tổ chức kết hợp với Tết nhảy.

Người ta lập ba bàn cúng nhỏ ở giữa nhà, xếp ngang nhau: bàn ở giữa gồm một thủ lợn, một con gà luộc, năm chén rượu, một chén nước, sáu chiếc bánh giầy, dành để cúng các vị trung tổ; bàn bên phải bày lễ vật giống bàn giữa, dành cúng bố mẹ gia chủ (đã khuất); bàn bên trái có thêm một túi nhỏ đựng gạo, tiền, dành cúng các vị cao tổ. Mỗi mâm lễ đều đặt tiền vàng. Việc cúng l ở ba bàn này sẽ do ba thầy cúng đảm nhiệm.

Thầy Sliêu họ đứng trước bàn thờ tổ tiên báo cáo những việc gia đình đã làm trong năm qua, và cầu xin tổ tiên phù hộ cho năm mới tốt đẹp, mùa màng bội thu. Sau đó thầy dùng một cành cây (thường là cành chè hoặc loại cây nào đó không có nhựa) để làm phép và dắt lên bậu cửa chính. Theo người Dao, đây là cành cây có tác dụng ngăn trừ tà ma, bệnh tật, cái xấu, cái ác. Cành cây này được để nguyên trên bậu cửa cho đến khi nào héo khô và tự rơi xuống.

Trong khi thầy Sliêu họ làm phép tẩy rửa uế tạp của năm cũ, ba thầy khác vừa đọc bài cúng vừa chia tiền vàng. Họ cho rằng, chia tiền vàng là để trả lễ cho từng công việc của tổ tiên như: phù hộ việc làm ăn, mùa màng; phù hộ con cháu khỏe mạnh... Sau đó, các thầy hóa tiền vàng rồi gõ chảo (làm từ gốc tre già, bổ thành hai mảnh, gõ vào nhau, có tác dụng thay cho đồng tiền âm dương) để tiễn đưa tổ tiên; kèn, trống, chiêng, thanh la đều gióng lên rộn rã.

Dưới bếp, một thầy cúng khác tiến hành lễ cúng ma bếp, vừa cúng vừa gõ chảo. Tương truyền, ma bếp ở đây chính là hai người vợ của Ngọc Hoàng, thường trông coi việc bếp núc, nên được dân gian thờ cúng. Người vợ cả còn gọi là Bà chúa Đen, vợ hai còn gọi là Bà chúa Trắng. Dựa theo lời kể về thói quen của hai bà lúc sinh thời, nhà nào thờ Bà chúa Đen thì lễ vật dâng cúng là thịt gà, rượu. Nhà nào thờ Bà chúa Trắng thì lễ vật sẽ là gạo rang và nước chè.

Tết trả lễ kết thúc lúc 9 giờ 15 phút. Gia chủ và khách nghỉ ngơi, ăn trưa. Mâm cỗ Tết của người Dao hết sức độc đáo. Toàn bộ thịt (lợn, gà) được đặt lên lá chuối kèm đĩa muối (hoặc bát nước mắm), có thể có thêm vài món rau ăn kèm.

Sau giờ nghỉ, một nhóm nam thanh niên làm oản để dâng cúng. Trên nhà, một số thầy tập trung viết chữ Nho lên kiếm để phân biệt các loại kiếm, số lượng kiếm được quy định theo từng dòng họ. Dòng họ Bàn gồm: bốn bộ kiếm, một đôi búa, một đôi thuổng, 12 lá cờ.

Gia chủ lần lượt bày các đồ lễ lên bàn cúng chính, gồm: một cành cây nhỏ, một mẹt đựng lúa khô còn nguyên bông, một nhúm gạo, một túi gạo nhỏ, một con dao. sáu cái chén (trong đó có một chén nước), bốn cái chuông, kiếm, búa gỗ, hai ông tre đặt hai bên bàn để cắm cờ, bốn chiếc gậy có dán giấy vàng (tượng trưng cho vũ khí dùng đánh dẹp mọi trở ngại trên đường). Thầy Siêu họ và thầy Khoi tàn mặc áo cúng, đội mũ cúng để vào lễ.

Sau khi tuyên bố lí do, hai thầy chia tiền vàng với mục đích trả chi phí đi lại cho tổ tiên về dự, rồi gõ một thanh gỗ nhỏ [5] lên bàn để báo chuyển sang mục khác. Thầy Sliêu họ nhúng thanh gỗ vào chén rượu và vẩy tượng trưng ra các hướng nhằm tẩy rửa mọi uế tạp. Bên ngoài, ba thầy khác cùng lúc thổi một hồi kèn, đánh một hồi trống và thanh la. Thầy Sliêu lọ và thầy Khoi tàn tiếp tục đọc bài cúng. Cứ sau mỗi tiết mục, hai thầy lại gõ thanh gỗ lên bàn để gọi các bậc tổ tiên tiền bổi về chứng giám.

Nội dung lời cúng như sau: báo với tổ tiên, ông bà ông vải hôm nay gia đình tổ chức Tết nhảy, sau đó báo cáo các thủ tục khai mạc, rồi hóa vàng, thổi kèn, gõ trống, chũm chọe... Thầy Sliêu họ cùng thầy Khoi tàn nhảy kết thúc tiết mục mở màn.

13 giờ, thầy Khoi tàn mặc trang phục truyền thống của người Dao, đầu đội mũ, đeo sền tàu (tuơng tự như mặt nạ, nhưng chỉ đeo ngang trán) vào hành lễ. Theo quan niệm truyền thống, đây là người hướng dẫn cho thanh niên múa. Sau khi báo với thần linh và chúa đất, các thầy bắt đầu múa khai cuộc. Tiết mục múa kéo dài trong khoảng 15 phút, cứ mỗi lần rung chuông là thầy lại mời một vị thần linh về uống rượu.

Tiếp theo, hai thanh niên mang kiếm, búa gỗ và cờ ở trên bàn cúng chính xuống, nhảy múa, vừa múa vừa tiến ra phía cửa chính. Điệu múa này được gọi là múa xuất binh. Một thanh niên khác cầm thanh gỗ và chuông, múa điệu khá đơn giản (chủ yếu là di chuyển chân theo nhịp, hai bước nhún tại chỗ, một bước tiến lên, nhưng hết sức nhịp nhàng, khéo léo), vừa múa vừa rung chuông, trong khi các thầy bên ngoài đồng thanh đọc bài cúng để mời tất cả các vị thầy tiền bối về ăn bánh, uống rượu.

Kết thúc điệu múa xuất binh, chuyển sang múa nhập binh, hai thanh niên mang kiếm, búa, cờ vào nhà múa vài vòng rồi đặt trở lại vị trí ban đầu và tiếp tục múa mời âm binh vào ăn bánh, uống rượu trong âm thanh rộn rã của trống, kèn, chiêng và thanh la. Tiếp đó, họ cầm trượng múa vài ba lượt rồi đem dựng hai bên bàn. Một người xin âm dương xong lại cầm trượng múa tượng trưng cho việc chuẩn bị mở kho lấy bánh, rượu.

Lần múa xuất binh, nhập binh này rất đơn giản, diễn ra ngắn gọn, chỉ mang tính chất “làm mẫu”, mở màn.

Khi gia đình mang oản lên đặt giữa nhà, hai thầy chính đám bắt đầu múa mở rượu, còn người nhà dỡ bánh, rượu cái (chín chén trở lên) ra để mời âm binh. Thầy cúng chia tiền vàng, vừa chia vừa đọc bài cúng, rồi xin âm dương và đem hóa vàng. Những điệu múa đơn giản lại tiếp tục diễn ra, và kết thúc bằng nghi thức xin âm dương.

Toàn bộ Tết nhảy có 12 bài múa, tương ứng với 12 bài hát (bài cúng) lần lượt kể về lai lịch của từng vị Thánh. Sau đó, 12 bài múa này sẽ được lặp lại thêm 2 lần nữa (tức tổng cộng ba ngày ba đêm có 36 lượt múa).

Thầy Sliêu họ và thầy Khoi tàn mặc áo thêu hình rồng, người nhà và dân làng (không có phụ nữ) đứng thành hai hàng cùng múa hát mở màn (mỗi người đều cầm một loại dụng cụ: trống, chũm chọe, trượng...). Trong điệu nhảy này, thầy Sliêu họ có thể cho con trai tạm thời thay thế vị trí của mình. Họ nhảy theo vòng tròn giữa nhà 3 lượt, vừa múa hát vừa gõ dụng cụ (khoảng 40 phút).

Lượt thứ nhất, hai thanh niên cầm kiếm, cờ để múa, các thầy cúng gõ chiêng, trống. Những người khác cũng bắt đầu ra nhảy múa (tay cầm kiếm, búa gỗ) trong âm thanh tưng bừng. Múa xong một lượt, họ lại mang kiếm đặt lên chiếc bàn kê bên ngoài cửa ra vào.

Lượt thứ hai, bốn thanh niên, mỗi người cầm hai thanh kiếm gỗ nhảy với động tác nhanh hơn, khỏe khoắn hơn, nhịp điệu rộn ràng hơn. Họ múa liên tục không ngừng, có điệu bộ mô phỏng việc luyện binh, rèn dao, đóng chuôi dao, có điệu tượng trưng hành động mài kiếm, rồi tung kiếm hoán đổi cho nhau để kiểm tra xem kiếm ai sắc hơn. Kết thúc điệu múa này, lại mang kiếm ra bàn ngoài.

Lượt thứ 3: hai người cầm búa, hai người cầm trượng múa. Mỗi lần múa đều hò hét, tựa như tiếng quân binh hô hào, luyện võ đầy khí thế. Lần này có điệu múa xoay người, bật tung người nhanh, mạnh, phức tạp. Kết thúc điệu múa, họ lại mang búa đặt ra bàn ngoài. Sau đó, một người đứng ra xin âm dương, rồi tất cả nghỉ giải lao.

Ba lượt múa này chính là múa xuất binh (múa ra). Các vật dụng như dao, thuổng, búa được sử dụng với ý nghĩa mở đường. Điệu múa xuất binh tượng trưng cho hoạt động luyện binh, chiến đấu, do vậy nhịp điệu khá nhanh, dồn dập, mạnh mẽ với sự hỗ trợ của âm thanh náo nhiệt. Trước kia, điệu múa này có bài bản, lớp lang, trình tự, nhưng nay thanh niên không học được đầy đủ, nên khi múa có phần đơn giản, thậm chí đơn điệu hơn trước.

Hết giờ nghỉ giải lao, các thầy và nam thanh niên lại tiếp tục múa nhập binh (múa vào). Mục đích của múa nhập binh là tập kết đồ đạc, thu quân về căn cứ an toàn. Kết thúc điệu múa, phải xin âm dương.

Trong quá trình nhảy múa, những người lớn thường xuyên chỉ dẫn cho thanh niên. Đây là nét đẹp truyền thống của Tết nhảy người Dao, bởi thông qua hình thức sinh hoạt cộng đồng này, các thế hệ có điều kiện kết nối với nhau. Đặc biệt vai trò của những thế hệ đi trước được thể hiện rõ rệt qua việc hỗ trợ, lí giải và dẫn dắt cho thế hệ trẻ nắm vững các quy trình, nguyên tắc và ý nghĩa của Tết nhảy.

Một trong những công đoạn phức tạp và hấp dẫn của Tết nhảy là múa rùa. Theo lệ, cứ mỗi lần kết thúc 12 lượt múa, sẽ có một lần múa rùa dương, như vậy, toàn bộ Tết nhảy có 3 lần múa rùa dương.

Múa rùa dương thường diễn ra trong khoảng một giờ đồng hồ, mô phỏng hành vi săn rùa của người Dao xưa kia với trình tự: bắt rùa, trói rùa, cõng rùa, thịt rùa để dâng cúng các vị thần linh và mời cả dân làng ăn. Thực chất múa rùa là cách thức kể lại chuyện xưa cho các thánh xem.

Để chuẩn bị cho múa rùa, người ta đặt giữa nhà một mũ giấy màu sắc sặc sỡ, trên cắm bốn lá cờ, tượng trưng cho con rùa. Bên trong mũ là một chén đựng than củi và một túi gạo nhỏ. Hai thầy cúng mặc áo thêu hình rồng cùng hai thanh niên, mỗi người đều cầm dụng cụ, múa hát vòng quanh con rùa; các thầy khác đọc bài cúng hỗ trợ.

Những người tham gia vừa múa vừa liên tiếp gõ chiêng, lắc chuông. Tư thế múa thay đổi luân phiên, lúc đứng, lúc ngồi, lúc xoay người,... Điệu múa càng lúc càng sôi động và phức tạp, kèn, trống không ngừng gióng lên rộn ràng.

Tiếp đó, người ta dùng một thân chuối, chặt thành sáu khoanh, trên mỗi khoanh cắm một lá cờ và một cây kiếm gỗ, đem xếp thẳng hàng ở giữa nhà, mỗi khoanh cách nhau chừng 40 cm. Đây được hình dung như chướng ngại vật, buộc người tham gia múa phải vượt qua để bắt được rùa.

Các điệu múa lặp đi lặp lại nhiều lần, tượng trưng cho hoạt động bắt rùa, lật rùa, trói rùa; vừa múa vừa gõ chiêng, rung chuông. Múa xong, các thầy tạ lễ tổ tiên, mỗi người uống một chén rượu lộc. Dân làng (có cả trẻ em) tiếp tục cầm chiêng múa hát. Trong quá trình múa rùa dương có xen lẫn những động tác minh họa cưỡi ngựa, cưỡi hổ, đi xe ngựa, luyện binh,...

Kết thúc múa rùa dương, nếu ông đồng lên đồng, thì sẽ diễn ra nghi thức múa rùa âm. Người được chọn múa rùa âm nhất thiết phải là người có khả năng lên đồng. Đây tiết mục xuất thần và được chờ đợi nhất trong Tết nhảy.

Múa rùa âm và rùa dương không khác nhau về thể thức, dụng cụ, chỉ khác là múa rùa âm sẽ do ông đồng dẫn đầu, thầy Sliêu họKhoi tàn cùng mọi người theo sau. Kết thúc điệu múa rùa âm, ông đồng cầm một chiếc mẹt xoay xoay quanh nhà, tượng trưng cho việc chuẩn bị phương tiện xe cộ để ra về. Người Dao lí giải: ông đồng vốn ở Giang Châu, về đây giúp việc vài ngày, xong xuôi, lại trở về nhà mình. Ông thu dọn những thứ mang theo, bắc một chiếc cầu (bằng giấy màu vàng) để dẫn đường. Trước khi ra về, ông dùng dao viết tên cửa khẩu mình sắp đi qua, rồi xin âm dương. Nếu được nghĩa là ông có thể mang “hành lý” của mình về. 12 người vào giúp ông đồng chuyển đồ đạc, ông nâng mẹt lạy ba lạy cùng cha con gia chủ. Tiếp đó, mọi người có thể hỏi ông một số điều sẽ xảy ra trong tương lai (ví dụ: sang năm gia đình có hạn gì không, công việc làm ăn ra sao...). Một con gà trống được mang vào để tạ lễ ông đồng, ông vừa vặt lông và cầm dao chém tượng trưng con gà, vừa báo với thánh xưa của mình là đã nhận lễ. Kết thúc mọi việc, ông trở về cõi dương.

Đến ngày thứ ba, sau khi đã hoàn thành 36 lượt múa, mọi người nghỉ ngơi, ăn cơm, uống rượu, rồi lại chuẩn bị trang phục để bước vào nghi thức tiếp theo là Múa Đại đồng. Ở lễ múa này, thầy Sliêu họ cúng ngoài sân để mời Ngọc Hoàng chứng giám việc “khai thiên”, còn thầy Khoi tàn đảm nhận lễ chiêu mùa ở trong nhà.

Thầy Siêu họKhoi tàn mặc áo cúng truyền thống (váy phụ nữ Dao), đội mũ giấy, tay cầm đồ thờ (gồm: mặt nạ giấy cùng một thanh gỗ nhỏ) và chuông, múa hát giữa nhà. Các thầy khác đọc bài cúng hỗ trợ. Sở dĩ áo truyền thống của thầy cúng người Dao là váy phụ nữ, theo đồng bào lí giải, là do trước kia, phụ nữ đảm nhiệm công việc cúng lễ. Vsau này, phụ nữ dần ít tham gia cúng do những bất lợi về sức khoẻ, sinh nở và những ngày kiêng cữ trong tháng. Công việc này dần chuyển sang cho đàn ông, và ngày nay chỉ có đàn ông đảm nhận. Việc thầy cúng nam mặc váy áo phụ nữ khi hành lễ, theo chúng tôi, nhằm ghi nhớ truyền thống xưa kia của người Dao.

Sau vài màn múa, hai thầy đeo sền tàu (mặt nạ), buộc dải vải vuông lên đầu (thầy Sliêu họ dải đỏ, thầy Khoi tàn dải đen) rồi tiếp tục cầm chuông múa những điệu nhẹ nhàng, lặp đi lặp lại (chủ yếu vẫn là di chuyển chân, nhún chân, lùi chân). Ý nghĩa của hình thức múa chuông là kêu gọi các thánh sư phù hộ cho các thầy lên Thiên đàng gọi Ngọc Hoàng chứng kiến lễ tết này. Hai thầy cầm hai chén rượu mời các thánh sư uống. Còn hai thanh niên cầm toàn bộ kiếm và cờ múa vài vòng rồi đặt ra ngoài (động tác tương tự như múa xuất binh), sau đó xin âm dương.

Dưới bếp, người nhà bắt đầu mổ lợn để chuẩn bị cho các lễ cúng tiếp theo... (còn nữa)





* Viết chung với Lê Thị Dương, in trong Hội nghị Việt Nam học lần thứ IV, tập 3, 2013.

[1]. Phong Lê, Hiện đại hoá văn học Việt Nam trong đối sánh khu vực Đôny Á,
http://khoavanhoc-ngonngu.edu. vn/home/index.php?option=com_content&view=article&id
[2]. Xem Bế Viết Đẳng, Nguyễn Khắc Tụng, Nông Trung, Nguyễn Nam Tiến, Người Dao ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1971.
[3].Người Dao kiêng ăn thịt chó trước và trong Tết nhảy. Tập tục này liên quan đến truyện kể về nguồn gốc của người Dao và tục thờ chó của tộc người này. Theo người già kể lại, người Dao xưa kia ở Trung Quốc, do hoạ tru di cửu tộc nên đã lên 12 con thuyền vượt biển Đông trốn sang Việt Nam. Trên đường đi, sóng to gió lớn, 11 thuyền bị đắm, còn chiếc thuyền duy nhất bị thủng. Nhờ con chó được mang theo đâm đầu vào chỗ thủng, ngăn nước chảy vào thuyền, nên con thuyền này vượt biển thành công. Kể từ đó, người Dao ở khắp nơi đều thờ chó, và có tục lệ không ăn thịt chó.                                                        [4] Giá mỗi bộ khoảng 5 triệu đồng (giá năm 2011).                                                                                                                      [5]. Thanh gỗ, hoặc thanh tre, dài khoảng 15 - 20 cm, dùng để thay cho tiếng chuông, thanh la để gọi thầy sư phụ về phù hộ.



0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.