Làng, tiếng Hmông gọi là dò, quy mô của làng qua khảo sát cho thấy
ngày nay số hộ ở trong làng đông hơn trước rất nhiều. Theo các tư liệu cũ cho
biết vào những năm 1960, các làng của người Hmông thường có quy mô từ 10-15 hộ,
thậm chí có làng chỉ có 7 hộ. Hiện nay, quy mô của làng từ 30-50 hộ, làng đông
từ 60-100 hộ.
Đặc điểm nổi bật của người
Hmông là cư trú độc lập, ít sống xen kẽ với tộc người khác. Nếu sống xen kẽ thì
họ cũng tách ra thành các chòm, xóm riêng. Các làng có cư trú xen kẽ giữa người
Hmông với các dân tộc Thái, Việt cũng mới xuất hiện gần đây.
Một làng thường có từ 1 đến
4 dòng họ cư trú, người cùng dòng họ thường sống gần nhau, thể hiện tính khép
kín tộc người, vấn đề này do nhiều nguyên nhân. Trước hết, do người Hmông có ý
thức bảo tồn dân tộc rất cao, nên quan hệ hôn nhân chỉ trong nội bộ tộc người.
Mặt khác, môi trường sống của người Hmông thường ở vùng cao, giao thông đi lại
khó khăn, nên ít có cơ hội quan hệ với tộc người khác. Có thể nói trong làng
người Hmông quan hệ dòng họ, quan hệ huyết thống nổi trội hơn.
Ngoài khu vực cư trú, từng
làng còn có đất đai để canh tác và khai thác riêng rừng núi, nguồn nước, bãi
chăn thả súc vật. Đất đai và nguồn tài nguyên đó chỉ có người làng mới được quyền
khai phá, sử dụng. Người nơi khác tới làm trên đất phải xin phép. Mỗi làng đều
có một khu đất sinh hoạt chung, đó là một bãi đất trống, tương đối rộng, ở rìa
làng, đây là địa điểm hội họp, vui chơi của cả làng. Mỗi làng đều có hệ thống
giao thông đó là những con đường mòn, hàng năm dân làng phải có nghĩa vụ tu sửa.
1.
Bộ máy tự quản của làng
1.1.Trưởng làng (Chư dò)
Trong xã hội truyền thống
vai trò của Chư dò rất lớn, với tư
cách là người đứng đầu bộ quản, mọi công việc của làng đều vận hành một cách
trôi chảy, cùng với đức tính vô tư, công bằng nên vị trí của ông ta thường được
bền lâu, chỉ khi nào già yếu, không làm được việc nữa lúc đó người ta mới tiến
cử người khác thay thế.
Trong giai đoạn hiện nay,
vai trò của Chư dò đang được phát
huy, việc điều hành công việc trong nội bộ làng vẫn tuân thủ theo nguyên tắc
truyền thống tức là dựa trên cơ sở luật lệ của làng để xử lý người vi phạm.
Người được chọn làm Chư dò phải có một số tiêu chuẩn sau:
- Là người trung thực,
công tâm, biết phân biệt đúng sai. Khi có người vi phạm luật tục đứng ra giải
quyết, không thiên vị bên nào, sức khỏe là một tiêu chuẩn vì công việc bắt phải
đi nhiều.
- Biết cách ứng xử và
giao thiệp rộng rãi, không những đối với dân làng sở tại mà đối với dân ở các
làng khác, được mọi người tin cậy, có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất, có anh
em họ hàng đông.
- Am hiểu các phong tục tập
quán, nói giỏi tiếng phổ thông, không hút thuốc phiện và không nát rượu.
Nhiệm vụ của người trưởng
làng hiện nay là quán xuyến toàn bộ các công việc có liên quan đến lĩnh vực
kinh tế, xã hội, văn hóa, an ninh trật tự. Trước hết người trưởng làng có nhiệm
vụ tiếp nhận toàn bộ các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước cũng như
Nghị quyết của Đảng ủy, chính quyền xã, đồng thời phổ biến đầy đủ nội dung của
các văn bản đó đến người dân, kịp thời phản ánh tâm tư, nguyện vọng của dân
làng lên cấp trên.
Trưởng làng chịu trách
nhiệm hướng dẫn dân làng tiến hành sản xuất, điều phối đất đai, nhắc nhở mọi
người không xâm phạm đến khu vực canh tác của nhau.
Việc bảo vệ nguồn nước, bảo
vệ rừng cấm trưởng làng chịu trách nhiệm cao nhất và có quyền xử phạt trực tiếp
những ai chặt phá bừa bãi rừng đầu nguồn, làm ô nhiễm nguồn nước.
Trưởng làng còn là người
hiểu biết rõ về nguồn gốc của từng dòng họ về các mối quan hệ hôn nhân, nắm chắc
các phong tục tập quán, chịu trách nhiệm chính trong các vụ xử phạt người vi phạm
luật tục, những trường hợp vượt quá khả năng cho phép như: chứa chấp người phạm
tội, trưởng làng giao cho chính quyền xã xử lý theo pháp luật của Nhà nước.
Khi có những người xin nhập
cư sinh sống trên địa phận của làng, trưởng làng phải thông báo cho các trưởng
họ, già làng và đại diện các hộ gia đình biết, nếu được sự chấp thuận thì lúc
đó trưởng làng mới ra quyết đinh cuối cùng.
Hàng năm vào dịp Tết
(theo lịch Hmông) trưởng làng đứng ra chủ trì để cúng ma làng (đa giồng), và chỉ huy trai làng chôn cây
cột cột ma làng (tù xông). Sau dịp Tết
trưởng làng điều phối dân làng đi sửa đường, tu sửa nguồn nước.
Trưởng làng còn có nhiệm
vụ duy trì trật tự an ninh, quản lý chặt chẽ con người. Nếu có khách hoặc người
lạ mặt vào làng thì mọi người dân phải báo cho trưởng làng biết.
Trong làng, gia đình nào
có người qua đời trưởng làng phải đến để cắt cử người giúp tang lo cho việc
chôn cất.
Giúp cho trưởng làng còn
có 1-2 phó trưởng làng:
Về quyền lợi, trưởng làng
được Nhà nước trợ cấp khoảng 40.000đ/tháng. Còn các phó trưởng làng do dân đóng
góp. Sự đóng góp này có khác nhau. Chẳng hạn ở Huổi Đun (xã Huổi Tụ) mỗi hộ
đóng góp 2kg thóc/năm. Số thu được 50% chia cho phó trưởng làng, 50% làm quỹ của
bản.
Còn ở Mường Lống 1 và Mường
Lống 2 (xã Mường Lống) dân làng đóng góp chung 150 kg thóc/năm, số này phó bản
được hưởng cả.
Trưởng họ không phải là một
chức dịch trong bộ máy tự quản của làng, nhưng đối với dòng họ, ông ta có uy
quyền tuyệt đối, tiếng nói của ông ta được mọi người trong dòng họ tuân theo.
Người Hmông quan niệm trưởng họ là người “nắm tay dân ở, mở tay dân đi”.
Đối với người Hmông, người
được coi là trưởng họ phải am hiểu các qui định, các bài cúng của dòng họ mình,
hiểu biết thành thạo các phong tục tập quán, biết lý lẽ và có tài ứng xử, có
nhiều kinh nghiệm và giỏi tổ chức các hoạt động sản xuất, và luôn tận tình giúp
đỡ người trong họ, được mọi người trong dòng họ yêu mến, người khác họ kính trọng.
Nhờ có uy tín và sự hiểu
biết nên tiếng nói của họ rất quan trọng, thậm chí là quyết định.
Nhiệm vụ của trưởng họ là
duy trì mọi sinh hoạt, nghi lễ của dòng họ mình. Khi một người nào đó trong
dòng họ dựng vợ gả chồng cho con cái, thì trưởng họ phải có mặt để cúng bái,
kính cáo cho tổ tiên biết. Có người qua đời, trưởng họ triệu tập các chủ gia
đình trong họ bàn bạc việc chôn cất. Trưởng họ còn đứng ra giải quyết tranh chấp
đất đai, tài sản, vi phạm luật lệ của dòng họ: vận động các thành viên trong
dòng họ đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong những lúc khó khăn, thiếu thốn đồng thời
chịu trách nhiệm trao quyền lại những phong tục, tập quán, kinh nghiệm sản xuất
cho mọi người trong dòng họ.
Như vậy, trong cuộc sống
của người Hmông, người trưởng họ giữ vai trò quan trọng; không những trong đời
sống tinh thần mà còn trong nhiều hoạt động khác. Trong chừng mực nào đó trưởng
họ giữ vị trí then chốt hơn cả những người làm nhiệm vụ trong bộ máy chính quyền.
Trong xã hội người Hmông,
những hoạt động và tổ chức của dòng họ có mối quan hệ với nhau. Đã là công việc
của dòng họ thì trưởng làng không can thiệp bởi lẽ theo quan niệm của người
Hmông: “Việc của dòng họ phải giải quyết bằng lý của dòng họ”.
Ngược lại, đối với những
công việc chung của làng như sửa đường, hoặc trong làng xảy ra trộm cắp, trưởng
làng chỉ cần báo cho trưởng họ là mọi việc sẽ ổn thỏa.
Thoạt nhìn, có thể nghĩ rằng
trưởng họ chỉ có vai trò trong lĩnh vực tinh thần (tín ngưỡng cưới xin, ma
chay, thờ cúng), song trên thực tế, vai trò của người trưởng họ chi phối trong
nhiều lĩnh vực: di chuyển dân cư, bố trí cán bộ, thực hiện các chủ trương của địa
phươn và Nhà nước.
1.3.Già làng
Già làng bao gồm những bậc cha chú trong
các dòng họ, đây là lớp người cũng có vai trò quan trọng trong cộng đồng làng,
có nhiều kinh nghiệm trong lao động sản xuất, am hiểu phong tục tập quán, nắm vững
“cái lý” của người Hmông, hiểu biết về các nghi thức ma chay cũng như quy ước
chung của làng và dòng họ, công việc chung của làng luôn được người già đóng
góp, ý kiến của họ thường phản ảnh nguyện vọng của dân làng cũng như của các
dòng họ, nên nhiều khi trưởng làng, chính quyền xã phải lắng nghe và xử lý theo
ý kiến của họ. Do vị trí của già làng như vậy nên trong việc triển khai các dự
án cần xây dựng quan hệ tốt với già làng, tìm ở già làng tiếng nói ủng hộ.
1.4.Thầy cúng
Đây là những người đóng vai trò quan trọng
trong đời sống tinh thần của cộng đồng. Họ thay mặt cộng đồng giao thiệp với thế
giới “thần linh”, cúng bái, chữa bệnh cho người ốm bằng hình thức bói toán, đuổi
ma, trừ tà. Người Hmông khi ốm đau tin rằng cầu cúng là khỏi bệnh
2.
Những
quy định biểu hiện tính luật tục
Trong xã hội người Hmông
từ bao đời nay đã tồn tại những luật tục liên quan tới đời sống cộng đồng, mặc
dù chỉ thông qua truyền miệng nhưng buộc mỗi thành viên trong làng phải tuân
theo nghiêm túc.
Trong phạm vi cư trú của từng cộng đồng
làng, các gia đình được tự do khai phá nương rẫy, săn bắn và hái lượm rau rừng
nhưng không được khai thác bừa bãi, tất cả đều tuân thủ những quy định chung:
Đi làm nương rẫy nếu thấy
có cọc gỗ trên có cài là xanh (mùa pu)
báo hiệu đất đó đã có chủ thì người khác không được xâm phạm đến. Nếu ai muốn
làm trên đất của người khác chỉ cần thổ lộ nguyện vọng, thêm vào đó là chút quà
mọn (chai rượu hoặc 3-4 đồng cân thuốc phiện), cho người đã có công khai phá. Mảnh
nương đang phát, dọn mà nhà khác đến xâm phạm thì bị phạt bằng cách phải dọn sạch
mảnh nương đó cho chủ cũ.
Đối với nương lúa và
nương ngô sau 3,4 năm canh tác nếu gia đình không làm thì thuộc sở hữu công cộng,
ai đến trồng trọt cũng được, không cần phải hỏi đến chủ cũ.
Người làng khác vì thiếu
đất muốn đến canh tác thì nhất thiết phải đến hỏi trưởng làng và mang kèm theo một chai rượu. Khi đã được đồng ý,
hàng năm sau mùa thu hoạch đem nộp lệ phí cho làng tùy theo chất lượng thu hoạch
được ở từng mảnh đất. Nếu nơi đất lẫn nhiều đá thì nộp theo mức nành cổ xia (20.000đ) còn chỗ đất tốt nộp
pề chổ xia (30.000đ), mức nộp này
không phụ thuộc vào mảnh nương bé hay lớn. Tuy nhiên, việc làm trên những mảnh
nương như thế cũng chỉ giới hạn trong ba năm, nếu quá thời gian cho phép thì bị
thu lại nương và tịch thu toàn bộ sản phẩm.
Đất đai của làng nào thì
làng đó quản lý, không để người làng khác xâm phạm (làm nương, thu hái lâm sản
quý), người nào không tôn trọng quy ước đều bị xử phạt nặng.
2.2. Những
quy định về việc bảo vệ nguồn nước và rừng
Người Hmông rất coi trọng
nguồn nước và có nhiều nghi lễ, luật tục nhằm bảo vệ và xử phạt những người cố
tình vi phạm. Đầu năm mới (Tết Hmông) trưởng làng đứng ra điều hành việc tu sửa
nguồn nước, vào ngày đã định, các gia đình cử một người tới lấy nước của làng,
mang theo công cụ (dao, cuốc v.v…) để khơi dòng chảy, đào đắp bờ, làm hàng rào,
đóng nắp gỗ mới, tu sửa hệ thống dẫn nước bằng máng tre, công việc phải hoàn
thành trong ngày. Vào đêm 30 Tết Hmông, đồng bào có tục lệ đi lấy nước nguồn (hủa đề xia) theo tập quán khi tiếng gà
gáy đầu tiên vang lên báo hiệu đêm cuối cùng đã hết, năm mới đã về, lúc này mỗi
nhà cử một người mang theo ống tre, ống nứa hoặc thùng gỗ đi lấy nước, tới nguồn
nước người ta bắn sung hoặc đốt pháo rồi đồng thanh nói: năm cũ qua đi năm mới
tới, mọi ốm đau bệnh tật và những điều không tốt lành thì trôi theo năm cũ. Năm
mới về làm ăn may mắn, đạt nhiều kết quả tốt. Dứt lời người ta lấy dụng cụ múc
nước mang về nhà. Có gia đình sáng mùng Một Tết lấy 3 giọt nước của năm cũ và 3
giọt nước của năm mới đặt lên cân tiểu ly, nếu thấy trọng lượng nước năm mới nặng
hơn nước năm cũ thì họ tin rằng là năm: “mưa thuận gió hòa”, mùa màng bội thu,
nếu trọng lượng bằng nhau hoặc nhẹ hơn, năm đó làm ăn gặp nhiều trắc trở. Nước
lấy về được đem nấu ăn ngay buổi sáng. Người Hmông ở đây quan niệm làm như vậy
sẽ tẩy rửa được hết mọi rủi ro, những điều tốt lành sẽ đến.
Trong một số nghi lễ gia
đình, người Hmông lấy nước để thực hiện nghi lễ, chẳng hạn trong cúng dòng họ (thi su) để chọn thầy cúng người ta hay sử
dụng hình thức bói nước hoặc cúng người ốm, sau khi hành lễ xong thầy cúng cũng
dùng nước suối, làm nước “thánh” vẩy lên người ốm để trừ tà.
Để bảo vệ nguồn nước, người
Hmông đề ra một số quy định cấm tắm, giặt, mổ lợn gà ở nguồn nước (hố đê), nơi khơi dòng lấy nước ăn (pá đê), ai vi phạm lần đầu nhắc nhở,
giáo dục, nếu lần sau tái phạm, nộp phạt một con gà một quả trứng, một bát gạo
mang đến nhà trưởng làng, ông ta đưa số lễ vật đó ra chỗ lấy nước chung của
làng trước sự chứng kiến của đông đảo dân làng rồi lễ và nói: chỗ này là nơi mọi nhà tập trung lấy nước về
ăn, anh (chị) tự tiện đến tắm giặt làm ô uế, nên phải làm lễ này cúng thần nước.
Làm độc hại, gây bẩn đục
nguồn nước, xưa kia người nào mắc phải bị phạt theo hai mức:
- Nếu thả bả độc đánh cá
trên nguồn nước dùng chung cho vài ba bản thì phạt 7 lạng 2 bạc trắng.
- Có mâu thuẫn mà dùng bả
độc thả vào nguồn nước nhằm mưu hại nhau bị phạt 12 lạng bạc trắng
Hình thức phạt bạc trắng
trước đây qui định chung cho tất cả người Hmông ở Kỳ Sơn. Ngày nay mức phạt chuyển
sang bằng tiền và mỗi làng áp dụng một khác, chẳng hạn ở Thảm Lạng người nào mắc
tội thả chất độc xuống sông suối thì bị phạt từ 200.000đ đến 300.000đ, ở Mường
Lống phạt 500.000đ.
Bỏ thịt thối, gà chết vào
nguồn nước mà bắt được quả tang phạt từ 10.000đ đến 50.000đ.
Người Hmông quy định những
khu rừng cấm, nghiêm cấm mọi người chặt phá cây rừng, ai vi phạm bị phạt một
con lợn, ngày nay chuyển nộp phạt bằng tiền từ 50.000 đến 100.000đ.
Những cây mọc tự nhiên
thuộc quyền sử dụng chung của làng, mọi người phải có trách nhiệm bảo vệ, còn nếu
cây do con người trồng thì nó thuộc quyền sở hữu của người đó, ai tự ý chặt sẽ
bị phạt theo hình thức “chặt một cây trồng đền 10 cây khác”.
Một số
loại cây đặc biệt có thể thay lương thực vào những tháng giáp hạt như cây đòng đành, người nào đánh dấu mùa pu tức là cây đó đã có chủ. Những
cây mọc trên đất canh tác của gia đình nào thì thuộc quyền sử dụng của gia đình
đó.
2.3. Những
quy định về bảo vệ mùa màng và chăn nuôi
Trong
từng làng quy định chỗ chăn thả trâu bò riêng gọi là lút xá xia, xung quanh được rào dậu cẩn thận, ở đó không ai được tự
tiện đến phát đốt làm nương. Vào thời vụ từng nhóm gia đình canh tác gần nhau
cùng hợp lực làm rào chắn khu vực trồng trọt ấy, trên các ngả đường vào làng,
vào nương người ta làm hàng rào bằng gỗ, làm cổng làng bằng gỗ hoặc tre, ai qua
lại phải đóng cửa.
Luật tục xử phạt nghiêm
minh những gia đình nào để trâu, bò, lợn, gà tự do phá hoại mùa màng. Nếu trâu,
bò vượt rào phá hoại cây trồng thì chủ của nương được quyền bắn chết con vật
đó. Và mời trưởng làng cùng người già có uy tín đến tận nơi xác định giá trị
hoa màu bị hư hại. Nếu chỗ hoa màu giá trị tính ra lớn hơn con vật bị bắn chết
thì chủ chăn nuôi phải đền toàn bộ chỗ hoa màu bị phá hoại và được phép đem con
vật về nhà mổ thịt, trường hợp chỗ hoa màu bị thiệt hại không đáng kể, chỗ hoa
màu không bằng giá trị của con trâu, bò thì chủ nương, chủ chăn nuôi chia nhau,
mỗi bên một nửa; còn lợn thả rông mà vào nương phá hoại thì theo nguyên tắc tủa no, pua dứ (lợn ăn, lợn trả) tức là
chủ nương được phép bắn chết.
Một số quy định khác
Ngoài
luật tục quy định về nguồn nước, rừng cấm, bãi chăn nuôi trong từng cộng đồng
làng của người Hmông còn tồn tại nhiều luật tục và quy định khác.
Chẳng hạn, quy định mộ
chí của người chết phải đặt bên sườn của quả núi và do thầy địa lý chọn. Người
già qua đời được chôn cất nơi cao ráo, những người mất chôn cất sau, mộ phải đặt
phía dưới cách 5 m. Người ta cũng quy định mộ chí không được chôn gần nguồn nước
dễ gây ô nhiễm, nếu ai làm sai thì phải giết một con bò để sửa mộ.
Việc xâm phạm của riêng bị
nghiêm trị, ăn trộm bị bắt quả tang, tùy theo mức độ giá trị của tài sản mà kẻ
lấy trộm sẽ bị phạt theo 3 mức:
- Ăn trộm gà, lúa lần thứ
nhất bị bắt quả tang phạt 1 lạng 2 bạc trắng.
- Ăn trộm gà, lúa và gây
mất đoàn kết phạt 2 lạng 4 bạc trắng.
- Ăn trộm nhiều lần, giáo
dục không chịu sửa chữa, tiếp tục tái phạm 3 lạng 6 bạc trắng. Trường hợp tang
vật chưa tiêu tán, người đó mang tận nơi trả lại chủ nhà thì không phải nộp phạt
nữa, nhưng suốt đời bị dân làng chê cười, xa lánh.
Luật tục xử phạt nặng mối
quan hệ bất chính giữa nam và nữ. Đối với tội ngoại tình hoặc chửa hoang xử phạt
theo 3 mức:
- Ngoại tình bị bắt quả
tang phạt 7 lạng 2 bạc trắng.
- Ngoại
tình nhưng làm cho gia đình đó chia lìa thì chịu phạt 24 lạng bạc trắng.
- Chưa tổ chức lễ cưới mà
trai gái đã chung chăn gối, người con gái có thai nhưng chàng trai không lấy
làm vợ hoặc làm cô gái bị chết thì kẻ đó bị phạt 36 lạng bạc trắng.
Vợ chồng bỏ nhau thì chia
đều tài sản do hai người làm ra trong quá trình chung sống, của cải bố mẹ cho
lúc thành hôn không được chia, riêng con cái theo luật tục: con trai theo cha,
con gái theo mẹ, nếu bỏ nhau mà lỗi do người chồng hay vợ gây ra thì phạt riêng
người đó.
Trong cộng đồng người
Hmông, ăn cắp và hủ hóa là hai tội bị khinh ghét nhất, người nào mắc phải không
những dân làng chê cười mà còn bị anh em họ hàng xa lánh.
Nhìn chung, những quy định
được mô tả trên đây xưa và nay đã góp phần tích cực trong việc duy trì và điều
chỉnh mọi hoạt động trong cộng đồng làng Hmông. Đó là cơ sở pháp lý của hệ thống
tự quản ở từng làng.
3. Vài nhận xét
Làng Hmông tuy không phải
là đơn vị hành chính cấp cơ sở nhưng vai trò của làng rất lớn. Mọi chủ trương,
chính sách, đường lối của Đảng, Nhà nước Việt Nam có đến được với dân hay không
đều thông qua cấp làng. Trưởng làng vừa là người đại diện cho dân làng, vừa là
người đại diện cho chính quyền. Vai trò của trưởng làng được đề cao. Tuy nhiên,
nhiệm vụ của trưởng làng hiện tại vẫn chủ yếu quản lý nhân khẩu, phổ biến chủ
trương chính sách của Đảng, Nhà nước đến người dân. Mọi công việc đều do xã điều
hành trực tiếp. Việc đầu tư phát triển chủ yếu vào quy mô cấp xã. Trong khi đó
người dân vẫn gắn kết chặt chẽ với làng hơn là cấp xã.
Ở người Hmông: trưởng
làng, trưởng họ, già làng, thầy cúng là những nhân vật rất có uy tín trong cộng
đồng. Mỗi vị trí, chức vụ đó dù là do dân cử như (trưởng làng) hay suy tôn (trưởng
họ, già làng, thầy cúng) đều có vai trò quan trọng trong sự vận hành của làng,
được dân làng ngưỡng mộ. Tiếng nói của họ thậm
chí đôi khi còn có tác dụng hơn cả chính quyền, họ có uy tín và được mọi người
kính nể, nếu tranh thủ được họ, đưa họ tham gia vào một số công việc chung của
xã thì rất hiệu quả. Họ đã nói thì dân nghe và làm theo. Muốn tranh thủ được những
người này, cần phải hướng dẫn tận tình, mềm dẻo, kiên trì, giải thích ngắn gọn,
khéo léo, tế nhị và cũng phải có sự động viên thỏa đáng.
Người Hmông sống phóng
khoáng, tự lực cánh sinh, tư duy cụ thể thiết thực, trình độ dân trí còn thấp,
tiếp nhận tiến bộ khoa học chậm, nhưng sẵn sàng học hỏi, noi theo các điển hình
xây dựng kinh tế gia đình tốt xuất hiện trong cộng đồng.
Xã hội người Hmông có hệ
thống luật tục riêng, không được ghi chép bằng văn bản mà chỉ truyền miệng từ
thế hệ này sang thế hệ khác, được mọi người trong cộng đồng tự giác thực hiện.
Những luật tục này như là một cương lĩnh tinh thần đối với mọi tổ chức xã hội
khác nhau trong làng xã. Luật tục này có tác động đến mọi thành viên của làng
dù người đó là cán bộ hay dân thường, là người của dòng họ này hay dòng họ khác.
Bên cạnh đó mỗi dòng họ vẫn duy trì những quy định riêng trong một số lĩnh vực:
tang ma, nghi lễ cúng bái của dòng họ. Do vậy, luật tục trở thành sợi dây vô
hình nhưng bền chặt cố kết mọi thành viên trong cộng đồng.
Trên cơ sở các luật tục
truyền thống có thể triển khai xây dựng các quy ước mới của cộng đồng trong việc
bảo vệ đường, hệ thống bể nước, ống dẫn nước, sử dụng đất đai, rừng… Những quy
ước này soạn thảo cần phải có sự đóng góp ý kiến của người dân. Có như vậy thì
hiệu quả của việc đầu tư của Chính phủ, các tổ chức quốc tế mới phát huy tác dụngq