Nho giáo thâm nhập vào Việt Nam tạo ra hệ thống di tích văn miếu, văn từ, văn chỉ theo cấp độ hành chính quốc gia. Địa bàn Vĩnh Phúc là một bộ phận trong hệ thống đó mà huyện Vĩnh Tường là tiêu biểu nhất trong hệ thống này. Đó là hệ thống di tích Nho giáo được thiết lập theo bốn cấp độ hành chính sau đây.
Cấp độ hành chính thứ
nhất: Văn miếu cấp phủ
Văn miếu cấp phủ của phủ
Vĩnh Tường đặt tại xã Cao Xá huyện Bạch Hạc (nay là thôn Cao Xá xã Cao Đại). Sở
dĩ có văn miếu này do địa bàn huyện Vĩnh Tường xưa là nơi đặt trị sở của phủ
Tam Đới. Theo thông lệ trị sở của một phủ đặt đâu thì văn miếu của phủ thiết
lập gần đó. Vả lại huyện Vĩnh Tường thời đó cũng là một trong sáu huyện (Bạch
Hạc, Lập Thạch, Phù Khang, Tiên Phong, Yên Lạc, Yên Lãng) cùng sở hữu văn miếu
phủ Tam Đới.
Văn miếu phủ Tam Đới được
xác định xây dựng vào khoảng niên hiệu Hồng Đức (1470-1497), là thời kỳ mà Nho
giáo và Nho học phát triển mạnh trên địa bàn của phủ. Chưa rõ quy mô ban đầu
lớn hay nhỏ, gồm các hạng mục nào, chỉ biết vào năm 1667, dưới thời vua Lê
Huyền Tông (1663-1671), văn miếu phủ Tam Đới dưới sự chỉ đạo của Tri phủ Nguyễn
Duy Chí cùng các vị thuộc liêu trong phủ tiến hành trùng tu lần thứ nhất, do
trước đó văn miếu này đã bị đổ nát, chỉ còn lại nền đất. Sau một năm thi công,
đến năm 1668 hoàn thành, tạo thành một quần thể mới gồm một tòa chính điện và
một tòa tiền đường, theo kết cấu kiểu chữ “Nhị” (二). Mặt văn miếu hướng về phía Nam,“ điện văn miếu lại được làm mới, chế độ hoàn hảo,
không phải chạm xà vẽ cột mà tự trang nghiêm, không phải dùng đá đẹp hoa lạ mà
tự rạng ngời”.
Tham gia vào việc trùng tu
lần này gồm 79 người, trong đó có 39 vị thuộc diện quan chức trong phủ Tam Đới;
9 vị là Giám sinh, 19 vị là dân thường. Dân thường ở đây chủ yếu là người dân
trên địa bàn huyện Vĩnh Tường thời đó. Toàn bộ số kinh phí dùng trong trùng tu
do “tùy tâm” của từng người, không có sự chi viện của nhà nước.
Sau đó hơn 30 năm, vào cuối
thế kỷ XVII, thuộc đời vua Lê Hy Tông (1676-1705), văn miếu phủ Tam Đới tiến
hành trùng tu lần thứ hai. Đợt trùng tu thứ hai có cả một ban điều hành, do Tri
phủ Nguyễn Sĩ Vinh đứng đầu. Tham gia điều hành còn có Giám sinh Trương Đăng
Khoa, Đề lại Lưu Văn Vinh, Lại viên Ngô Trân cùng nhiều vị quan chức trong bản
phủ.
Công việc trùng tu
bắt đầu từ năm 1697, qua 5 năm, đến năm 1701 mới hoàn thành, tạo ra quần thể
gồm nghi môn ở phía ngoài, với hai cánh cửa gỗ chạm rồng; tiếp đến có hồ nhân
tạo, trên hồ bắc chiếc cầu 7 gian; giữa là khoảng sân rộng; bên trong là khu
thờ tự với hai dãy nhà chạy song song, nhà trước gồm ba gian tiền đường, nhà
sau gồm năm gian chính điện. Các hạng mục đi kèm gồm hai dải vũ đặt phía trước
tiền đường, tại bên tả và bên hữu, mỗi bên đều 3 gian. Trên chính điện treo tấm
biển sơn son thếp vàng gồm ba chữ “ Văn miếu điện” (Điện thờ văn miếu) để định
danh.
Đợt trùng tu lần thứ hai
mặc dù vẫn làm theo kết cấu kiểu chữ “Nhị” như lần trùng tu ban đầu nhưng công
trình này đồ sộ hơn, với nhiều hạng mục đi kèm, tạo ra hình ảnh mới cho văn
miếu phủ Tam Đới, với “cung rộng, tường cao, thềm nghiêm, sân rộng, quy mô chế
độ rực rỡ, văn vật đẹp tươi, uy nghi sầm uất, cảnh quan tráng lệ”.
Đây có thể coi là hình mẫu
tiêu biểu cho văn miếu cấp phủ của nước ta thời Lê – Trịnh, bởi cùng thời với
văn miếu phủ Tam Đới còn có văn miếu ở các phủ khác nhưng văn miếu ở các phủ
khác hiện thời đang thiếu tư liệu nên không thể phản ánh rõ diện mạo
của văn miếu bản phủ so với văn miếu phủ Tam Đới.
Do được tạo dựng với quy mô hoành tráng như vậy nên ở lần trùng tu thứ hai thu hút rất đông quan khách và người dân tham gia. Kết quả thống kê cho thấy có 18 tập thể góp công đức, như các Hội Tư văn ở các xã Phù Nhiễm, Tây Đằng, Trạch My Trù, Văn Trưng, Yên Đô; các nha môn ở phủ Tam Đới cùng nha môn ở huyện Lập Thạch và Tiên Phong; toàn dân các xã Cao Xá, Chu Chàng, Hoắc Sa, Định Hương… Về cá nhân, có 260 vị, trong đó có 135 vị thuộc diện quan chức và người đang đi học, 125 vị còn lại là người dân. Trong số người dân chủ yếu vẫn là người của huyện Bạch Hạc nhưng cũng có người ở các huyện khác, như Gia Lâm, Đông Ngàn, Thanh Trì, Thanh Oai, Thọ Xương, Từ Liêm (nay thuộc địa bàn thành phố Hà Nội); Gia Định, Tiên Du (nay thuộc địa bàn tỉnh Bắc Ninh); Gia Phúc, Đường Hào (nay thuộc địa bàn tỉnh Hưng Yên); Thanh Lâm (nay thuộc địa bàn tỉnh Hải Dương); Hoằng Hóa (nay thuộc địa bàn tỉnh Thanh Hóa); Thiên Lộc (nay thuộc địa bàn tỉnh Hà Tĩnh)… Kinh phí trùng tu đều dựa vào đóng góp của từng người với nhiều hình thức khác nhau, hoặc là tiền mặt, hoặc là nguyên vật liệu, hoặc đơn thuần chỉ là hàng ngày đến dọn dẹp, nấu nướng phục vụ cho thợ tu bổ văn miếu.
Trải đến cuối thế kỷ XVIII, vào thời vua Lê Hiển Tông (1740-1786), năm Cảnh Hưng thứ 38 (1777), văn miếu phủ Tam Đới tiến hành trùng tu lần thứ ba. Dưới triều Tây Sơn, vào niên hiệu Quang Toản (1793 -1802), văn miếu được trùng tu lần thứ tư, đồng thời diễn ra các hoạt động đúc khánh đồng, tạo trống cho văn miếu bản phủ.
Đến
năm 1821, phủ Tam Đới đổi tên thành phủ Tam Đa, năm sau 1822, lại đổi thành phủ
Vĩnh Tường, tên gọi của phủ Vĩnh Tường ra đời từ đây. Lúc này văn miếu phủ Tam
Đới trở thành văn miếu của phủ Vĩnh Tường, chung cho 5 huyện: Bạch Hạc, Lập
Thạch, Phù Ninh (tức Phù Khang cũ), Yên Lạc và Yên Lãng (Trước đó vào năm 1742,
huyện Tiên Phong cắt về phủ Quảng Oai).
Từ đây do việc tách hoặc sáp phập địa giới, có lúc văn miếu phủ Vĩnh Tường đại diện cho 3 huyện (Bạch Hạc, Lập Thạch, Tam Dương) như vào giai đoạn từ năm 1832 đến năm 1889; hoặc có khi đại diện cho 5 huyện (Bạch Hạc, Lập Thạch, Tam Dương, Yên Lạc, Yên Lãng), như vào thời điểm năm 1890; hoặc chỉ đại diện cho riêng huyện Bạch Hạc, như giai đoạn từ sau năm 1890 đến năm 1924, thì văn miếu phủ Vĩnh Tường luôn đặt trên địa bàn của huyện và huyện Vĩnh Tường vẫn là một trong số các huyện được quyền sở hữu về văn miếu này.
Trong khoảng thời gian nêu trên, văn miếu phủ Vĩnh Tường tiếp tục tiến hành trùng tu vào năm 1843, dưới thời vua Thiệu Trị (1841- 1847), do các vị Văn thuộc (Hội của người xuất thân ngạch văn, còn có tên gọi là Hội Tư văn) và Võ thuộc (Hội của người xuất thân ngạch võ, còn có tên gọi là Hội Tư võ) cùng đảm nhận. Đây được coi là lần trùng tu thứ năm.
Đến
năm 1925, văn miếu phủ Vĩnh Tường di dời lên gò Giác Lạc tại xã Định Trung
huyện Tam Dương, làm thành văn miếu của tỉnh, với tên gọi là văn miếu Vĩnh Yên,
chính thức chấm dứt sự tồn tại về tên gọi của văn miếu phủ Vĩnh Tường.
Cấp độ hành chính thứ
hai: Văn từ huyện Bạch Hạc
Văn từ huyện Bạch Hạc đặt tại
xã Thượng Trưng. Hiện chưa rõ văn từ này được xây dựng từ bao giờ, bởi thông
tin duy nhất đề cập đến văn từ huyện Bạch Hạc ghi nhận trong sách Xã
chí của xã Thượng Trưng. Sách chú bằng sơ đồ với vỏn vẹn bốn chữ
Hán: Bản huyện văn từ 本 縣 文 祠 [1]. Có nghĩa đây là văn từ của huyện Bạch Hạc.
Qua sơ đồ này cho biết văn từ của huyện Bạch Hạc chỉ là một tòa nhà, với kết
cấu hình chữ “ Nhất” (一 ).
Việc chọn xã Thượng Trưng
làm nơi đặt văn từ của huyện Bạch Hạc là hợp lý. Một mặt do nơi có truyền thống
hiếu học đứng đầu trong huyện với 5 vị đỗ đại khoa (Bùi Hoằng: đỗ Hoàng giáp
năm 1538; Lê Dĩnh: cũng đỗ Hoàng giáp năm 1538; Phí Văn Thuật: đỗ Hoàng giáp
năm 1640; Phí Quốc Thể: đỗ Tiến sĩ năm 1683; Bùi Công Tốn: đỗ Hoàng giáp năm
1685), cùng mấy chục vị đỗ Hương cống thời Lê và Cử nhân thời Nguyễn. Và mặt
khác xã là nơi thuận tiện về giao thông, do ở vị trí gần trung tâm của huyện.
Cấp độ hành chính
thứ ba: Văn từ cấp tổng
Thời
Lê địa bàn huyện gồm 8 tổng: Nhật Chiêu, Kiên Cương, Tuân Lộ, Đồng Phú, Thượng
Trưng, Đồng Vệ, Nghĩa Yên và Mộ Chu. Đến năm Tự Đức thứ 29 (1876), tách tổng
Lương Điền và Hưng Lục của huyện Yên Lạc sáp nhập vào địa phận của huyện, thành
10 tổng. Sau đến năm Tự Đức thứ 31 (1879), có thêm tổng Tang Đố của huyện Tiên
Phong chuyển sang, thành 11 tổng. Khoảng đầu thế kỷ XX, lại tách tổng Nhật
Chiêu trả về huyện Yên Lạc, còn 10 tổng. Tuy nhiên trong 10 tổng này chỉ hai
tổng sau đây xây dựng văn từ, gồm:
- Văn từ tổng Tang Đố
Văn từ này đặt tại thôn Môn
Trì (nay là thôn Môn Trì xã Vĩnh Thịnh). Ban đầu đặt ở xã Tang Thác (nay thuộc
xã Vĩnh Thịnh), xây dựng vào niên hiệu Chính Hòa thứ 6 (1685), với quy mô nhỏ:
xung quanh đắp tường đất, ở giữa đặt đàn vuông, dùng làm nơi thờ tiên thánh,
trong đó phối thờ hai vị đại khoa của tổng, là Hoàng Bồi, người xã Cam Giá Hạ,
đỗ Hoàng giáp năm 1463, làm quan đến chức Quốc tử giám Tư nghiệp và Nguyễn Minh
Khuê, người xã Phú Đa, đỗ Tiến sĩ năm 1523, làm quan đến chức Hình bộ Tả thị
lang kiêm Đình úy.
Sau vì thời gian lâu xa,
văn từ bị đổ nát, đến năm Tự Đức Nhâm Tý (1852), Cử nhân Nguyễn Văn Mưu, người
xã Cam Giá đứng ra đề xuất chọn địa điểm tại thôn Môn Trì nêu trên làm nơi xây
dựng văn từ cho tổng. Tham gia góp công đức xây dựng văn từ, ngoài Hội Văn thân
(tức tổ chức như Hội Tư văn) bản tổng, còn có khá nhiều người dân trong
12 thôn xã của tổng, tạo thành tòa ba gian thờ tiên thánh, tiên hiền
của tổng này.
- Văn từ tổng Lương Điền
đặt ở xã Đông Viên (nay thuộc xã Bình Dương). Thông tin về văn từ này vốn ngắn
gọn “đặt gần chùa Kỳ Đà [của xã Đông Viên], chỉ có một cái nhà thờ tiên hiền”
[2]. Tức kết cấu hình chữ “ Nhất”.
Cấp độ hành chính thứ tư:
Văn chỉ cấp xã
Văn chỉ cấp xã là cấp độ
cuối cùng trong hệ thống di tích Nho giáo trên địa bàn của huyện. Trong suy
nghĩ của người dân Vĩnh Tường, nhất là những nơi có người đỗ đại khoa thì việc
xây dựng văn chỉ là tất yếu nhằm tỏ lòng tri ân với tiên triết, tiên hiền,
những người có công mở mang việc học, tác thành nhân tài. Có thể nêu trường hợp
của xã Bồ Sao làm ví dụ: khi Văn hội của xã này khẳng định đất quê mình là nơi
sinh anh hùng, các vị tiên giác khoa bảng theo đạo học cũng ra đời từ đây,
khiến đời sau ngưỡng mộ nhưng chưa có miếu thờ tiên hiền, hàng năm phải tế
ngoài trời, mưa gió bất tiện. Nay ông họ Nguyễn, người bản ấp, đỗ Tiến sĩ khoa
Tân Sửu, làm quan đến chức Bồi tụng, Binh bộ hữu thị lang, tước Phố Thụy nam,
về trí sĩ [Nguyễn Văn Phú] đứng ra hưng công làm văn từ nhưng chưa xong. Năm Ất
Sửu, niên hiệu Chính Hòa (1685), các hội viên trong Hội Tư văn tiếp tục đứng ra
hoàn thành công việc, xây dựng xong văn từ lấy làm nơi thờ tiên thánh, tiên
hiền[3].
Còn những nơi chưa có người đỗ đại khoa, không có nghĩa không lập văn chỉ, bởi chỉ thông qua lập văn chỉ mới hy vọng phát đạt khoa cử về sau. Nhờ quan niệm như vậy nên văn chỉ trong huyện phát triển mạnh. Dưới đây là Bảng thống kê về văn chỉ trên địa bàn huyện Vĩnh Tường.
STT |
Xã |
Năm
tạo |
Năm
trùng tu |
Nguồn |
1 |
Bảo
Trưng (nay thuộc xã Phú Đa) |
Tự
Đức 30(1877) |
|
Bảo Trưng văn chỉ
bi (No.14315-6) |
2 |
Bích
Đại (nay là thôn Bích Đại xã Đại Đồng) |
Chưa
rõ |
|
Xã chí AJ1/3 |
3 |
Bồ
Điền (nay thuộc thị trấn Vĩnh Tường) |
Chưa
rõ |
|
Bồ
Điền điều ước bi chí (No.14203) |
4 |
Bồ
Sảo (nay thuộc xã Bồ Sao) |
Năm
Ất Dậu niên hiệu Chính Hòa (1705) |
|
Bản
xã Văn hội bi chí (No.13791-4) |
5 |
Cam
Giá (nay là thôn Cam Giá xã An Tường) |
Chưa
rõ |
|
Xã chí AJ1/31 |
6 |
Diệm
Xuân (nay là thôn Diệm Xuân xã Việt Xuân) |
Chưa
rõ |
|
Xã chí AJ1/2 |
7 |
Đại
Định (nay là thôn Đại Định xã Cao Đại) |
Chưa
rõ |
|
Từ đường học điền bi (No.13933) |
8 |
Đông
Viên (nay thuộc xã Bình Dương) |
Chưa
rõ |
|
Xã chí AJ1/26 |
9 |
Đồng
Vệ (nay là thôn Đồng Vệ xã Đại Đồng) |
Chưa
rõ |
|
Xã chí AJ1/3 |
10 |
Hoàng
Xá (nay thuộc xã Vĩnh Thịnh) |
Tự
Đức 4 (1851) |
|
Từ chỉ bi ký (No.14417-8) |
11 |
Hoàng
Xá Hạ (nay thuộc xã Vĩnh Thịnh) |
Chưa
rõ |
Tự Đức 20 (1867) |
Văn từ bi ký (No.14037-8) |
12 |
Hưng
Lục (nay thuộc xã Nghĩa Hưng) |
Chưa
rõ |
|
Xã chí AJ1/1 |
13 |
Hương
Phú (nay là thôn Hoa Phú xã Bình Dương) |
Chưa
rõ |
|
Xã chí AJ1/26 |
14 |
Lạc
Trung (nay là thôn Lạc Trung xã Bình Dương) |
Chưa
rõ |
|
Xã chí AJ1/26 |
15 |
Lương
Điền (nay thuộc xã Bình Dương) |
Chưa
rõ |
Duy Tân 4 (1910) |
Hậu hiền bi ký(No.13627) |
16 |
Phù
Chính (nay là thôn Phù Chính xã Tuân Chính) |
Chưa
rõ |
|
Tư văn điền bi ký(No.14361) |
17 |
Phù
Lập (nay là thôn Phù Lập xã Tam Phúc) |
Chưa
rõ |
|
Học điền bi ký(No.14348) |
18 |
Phú
Đa (nay là xã Phú Đa) |
Chưa
rõ |
|
Hương Trại điều
lệ (No.14531) |
19 |
Quý
Mãn (nay thuộc xã Bình Dương) |
Chưa
rõ |
|
Xã chí AJ1/26 |
20 |
Thổ
Tang (nay thuộc xã Thổ Tang) |
Chưa
rõ |
|
Văn chỉ bi ký(No.13704-5) |
21 |
Văn
Trưng (nay là thôn Văn Trưng xã Tứ Trưng) |
Chính
Hòa 23 (1702) |
|
Học xá điền thổ bi
ký (No.14252-3) |
22 |
Vũ
Di (nay là thôn Vũ Di xã Vũ Di) |
Tự
Đức 20 (1867) |
|
Bản xã văn
chỉ bi ký (No.14246-7) |
23 |
Yên
Cát (nay thuộc thị trấn Vĩnh Tường) |
Chưa
rõ |
|
Xã chí AJ1/25 |
Bảng Thống kê cho thấy có 23 văn chỉ cấp xã, gấp 11 lần về số lượng so với văn từ cấp tổng. Số lượng này chưa phải số liệu chuẩn xác, thực tế đương thời chắc chắn phải nhiều hơn, do văn chỉ ở Vĩnh Tường, kể cả văn từ cấp tổng nêu trên, còn có dạng kết cấu lộ thiên, tức không phải làm theo kiểu chữ “Nhất”. Dạng làm lộ thiên thì đơn thuần “chỉ có bệ và bốn bề tường, không có nhà”, như kê khai về văn chỉ của xã Hưng Lục [4]. Dạng lộ thiên này thường không dựng bia ghi sự kiện, sách Xã chí nhiều khi cũng không bao quát, dẫn đến thiếu hụt thông tin về văn chỉ trên địa bàn của huyện. Song với 23 xã có văn chỉ trên tổng số 70 xã, thôn, phường, trại của huyện vào thời điểm trước Cách mạng Tháng 8. 1945, chiếm tỷ lệ 32,8 %, đã là con số “lý tưởng” về di tích của Nho giáo trên địa bàn của bất cứ huyện nào ở nước ta.
Cũng qua Bảng Thống kê cho thấy mặc dù có đến 18 văn chỉ không xác định được năm tạo, 5 văn chỉ ghi rõ năm tạo, trong đó có 2 văn chỉ tạo thời Lê, 3 văn chỉ tạo thời Nguyễn, nhưng có thể khẳng định văn chỉ ở Vĩnh Tường xác lập dưới triều Nguyễn là chính, chủ yếu vẫn là trong niên hiệu Tự Đức (1848-1883). Điều này vốn bình thường nếu đặt trong bối cảnh nước ta giữa thế kỷ XIX là thời điểm mà văn chỉ phát triển nhất trong toàn bộ lộ trình phát triển của hệ thống di tích Nho giáo ở Việt Nam.
Nhân vật thờ tự
Do văn miếu văn từ văn chỉ
ở Vĩnh Tường là loại hình di tích của Nho giáo nên việc thờ tự tại các cơ sở
này trước tiên dành cho các vị tiên triết tiên hiền của Nho giáo. Văn miếu phủ
Tam Đới - tiền thân của văn miếu phủ Vĩnh Tường ngay từ khi xây dựng vào khoảng
niên hiệu Hồng Đức ghi nhận là nơi thờ Khổng Tử và Tứ phối. Khổng Tử (551 - 479
TCN) chính là ông tổ của Nho giáo, người có công khai mở việc học, còn Tứ phối,
tức bốn người học trò xuất sắc của Khổng Tử, gồm Nhan Hồi (513 - 482 TCN), Tăng
Sâm (505 - 436 TCN), Khổng Cấp (483 - 401TCN) và Mạnh Tử (372 - 289 TCN).
Sau lần trùng tu lần thứ
nhất, Khổng Tử và Tứ phối vẫn được thờ như cũ nhưng lần này là đắp bằng tượng
rồi tô vẽ. Điều đó cho thấy việc thờ Khổng Tử và Tứ phối tại văn miếu phủ Tam
Đới vào thập niên 60 của thế kỷ XVII, là bằng tượng chứ không phải bằng bài vị.
Vào đầu thế kỷ XVIII, sau
khi hoàn tất việc trùng tu lần thứ hai, ngoài Khổng Tứ, Tứ phối, còn đưa thêm
Thập triết. Thập triết ở đây là 10 vị hiền triết của Nho giáo, gồm Mẫn Tổn (593
- 497 TCN), Nhiễm Ung (552 - 483 TCN), Đoan Mộc Tứ (520 - 483 TCN), Trọng Do
(542 - 481TCN), Bốc Thương (507 - 420 TCN), Nhiễm Canh (544 - 505 TCN), Tể Dư
(520 - 481 TCN), Nhiễm Cầu (522 - 462 TCN), Ngôn Yển (506 - 433 TCN) và Chuyên
Tôn Sư (503 - 446 TCN).
Tại văn miếu của phủ Vĩnh Tường còn có ban thờ người đỗ đại khoa và trung khoa [6]. Người đỗ đại khoa và trung khoa thời đó của phủ Vĩnh Tường, là người của ba huyện Bạch Hạc, Lập Thạch và Tam Dương.
Tại văn từ cấp huyện của
huyện Vĩnh Tường (đặt ở xã Văn Trưng), chắc chắn cũng đưa người đỗ khoa trường
của huyện vào phối thời với các tiên triết, tiên hiền của Nho giáo.
Còn tại cấp tổng và cấp xã,
do cấu trúc đơn sơ nên thông thường chỉ thờ Khổng Tử và Tứ phối, sau đó đưa
thêm người đỗ khoa trường có trong địa bàn của phủ, của xã vào phối thờ. Điều
này ngoài văn từ của tổng Tang Đố như trình bày, còn thấy tại văn chỉ cấp xã
của các xã Bồ Sao, Vũ Di, Văn Trưng và Thổ Tang.
Việc đưa người đỗ khoa
trường theo từng cấp độ vào phối thờ với các vị tiên triết của Nho giáo, nhằm
mục đích giúp học sinh mỗi nơi biết đến họ tên, quê quán của các vị đỗ đạt
trong địa hạt mình, từ đó sinh lòng hâm mộ, phấn đấu học tập cho bằng họ là
điều nổi bật trong hệ thống di tích của Nho giáo trên địa bàn huyện.
Ngoài ra, với tính chất là
nơi công cộng nên tại các văn chỉ của các xã còn dựng bia ghi học điền, đặt
điều lệ miễn giảm tạp dịch, thưởng tiền, cấp ruộng cho người đỗ khoa trường
cùng một số chính sách khuyến học nhằm khích lệ tinh thần tinh thần học tập cho
sĩ tử cũng là nét cần ghi nhận trong hệ thống di tích của Nho giáo trên địa bàn
huyện Vĩnh Tường.
Tựu trung khi Nho giáo thâm
nhập vào địa bàn huyện Vĩnh Tường đã thiết lập tại đây cả một hệ thống văn
miếu, văn từ và văn chỉ. Đó là hệ thống theo cấp độ dọc với từng đơn vị hành
chính có tại địa bàn: trên là văn miếu cấp phủ, dưới là văn từ cấp huyện, rồi
đến văn từ cấp tổng và văn chỉ cấp xã. Điều này khác với Phật giáo khi nhập vào
địa bàn của huyện chỉ xây dựng cơ sở thờ tự theo cập độ ngang, là các ngôi chùa
có tại các làng xã. Song điều có ý nghĩa ở chỗ thông qua hệ thống di tích của
Nho giáo được thiết lập trên địa bàn của huyện cho thấy tinh thần tôn sư trọng
đạo, uống nước nhớ nguồn, mang bản chất tốt đẹp của dân tộc được thể hiện một
cách sâu sắc nhất tại chính vùng đất có bề dày văn hóa lâu đời này. Đây là điều
đặc biệt tạo thành nét riêng trong hệ thống di tích Nho giáo trên đất Vĩnh
Tường./.
* Nguyễn Hữu Mùi, trong sách Địa chí Vĩnh Tường (Nguyễn Ngọc Thanh chủ biên), Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2018.
[1] Xem Xã chí của xã Thượng
Trưng, Mục Văn bia, AJ1/25.
[2] Xem Xã chí của xã Đông
Viên, Mục Đình, AJ1/26.
[3] Xem Bản
xã Văn hội bi chí, tạo năm Vĩnh Khánh thứ 2 (1730), No.13791- 4.
[4] Xem Xã chí của xã Hưng
Lục, Mục Chùa, miếu, AJ1/1.
[5] Vĩnh Tường tế điền ký, tạo năm Thiệu Trị thứ 3 (1843), No.14638-9.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.