1. Làng bản và vai
trò của những người đứng đầu ở người Dao
Điểm mà chúng tôi chọn nghiên cứu sâu là bản Khuổi Đăm và bản
Khuổi Vùa. Đây là hai bản của người Dao Đỏ thuộc hai nhóm địa phương (Dao đốt
than và Dao thắp hương)[1], ở xã Quảng Bạch, huyện Chợ Đồn, tỉnh Thái
Nguyên.
Với người Dao Đỏ, làng hay bản được gọi bằng từ lổng, là đơn vị cơ
sở của hệ thống chính quyền, là nơi cư trú của nhiều gia đình thuộc những dòng
họ khác nhau. Cả hai bản Dao đều đã định canh định cư từ năm 1960 và được chính
quyền cấp xã phân chia diện tích đất đai làm ruộng nước, rừng núi, sông suối để
săn bắn và khai thác lâm thổ sản.
Bản Khuổi Đăm ở cách trung tâm xã chừng từ 1 đến 2 km có 46 gia
đình cư trú rải rác dọc hai ven đường quốc lộ liên xã, nhà cửa được làm dựa
theo địa thế của núi đồi. Đó là những ngôi nhà nền đất 3 hoặc 5 gian lợp gianh
hoặc ngói, tường nhà làm bằng gỗ, ven đường là những mảnh ruộng bậc thang mà
trước đó người Dao được xã chia cho, nhưng từ sau khoán 10 người Tày đòi lại,
nên bản Khuổi Đăm không còn ruộng nước nữa.
Bản Khuổi Vùa cách xa trung tâm xã 6km, để đến bản phải đi theo
một con đường nhỏ men theo chân núi, ở đây có 29 gia đình cư trú mật tập trên
sườn một núi đất, đến từng nhà là những con đường mòn tạo thành một hệ thống
đường làng, giống như bản Khuổi Đăm, nhà của người Dao ở đây cũng là những ngôi
nhà đất 3-5 gian nhưng lợp bằng cỏ gianh; đến nay ở bản Khuổi Vùa cũng không có
ruộng nước để trồng lúa nước. Ở cả hai bản, mỗi gia đình đều có một mảnh vườn,
tuy nhiên việc trồng các loại cây ăn quả như chuối, chanh, cam, mít…, và nhất
là trồng rau chưa được đồng bào chú ý đến vì thế mà vườn vẫn còn để trống. Ngoài
ngôi nhà chính, mỗi gia đình còn có một nơi ở phụ là nhà coi nương, vào dịp
gieo trồng hoặc thu hoạch sản phẩm người ta mới đến đó ở.
Sự đông đúc của các gia đình như hiện nay trong các bản người Dao
là sự tăng dân số tự nhiên trong suốt mấy chục năm qua và do sự chuyển cư về
vào nhiều thời điểm khác nhau. Theo lời lể của các thông tín viên ở bản Khuổi
Vùa cho biết năm 1960, cả bản có 7 gia đình đó là nhà các ông: Triệu Tiến
Quang, Triệu Đình Chư, Đặng Khải Ngân, Đặng Đức Kim, Triệu Khái Phủ, Triệu Tiến
Thông, Triệu Tiến Phủ, từ 7 gia đình gốc đó đến năm 1995 phát triển thành 24
gia đình. Từ năm 1968 đến năm 1993 có thêm 5 gia đình nữa xin về nhập cư vì vậy
tăng lên thành 29 gia đình. Bản Khuổi Đăm năm 1960 có 14 gia đình, nay phát
triển thành 49 gia đình.
Bản của người Dao ở Khuổi Đăm, Khuổi Vùa thường chỉ có người Dao
sinh sống. Những người ở nơi khác muốn nhập vào bản hoặc muốn làm nương thuộc
khu vực quản lý của bản phải được sự đồng ý của dân bản, nhất là của người già
và trưởng bản.
Cho đến nay rất hiếm thấy bản người Dao chỉ có một dòng họ cư trú,
bản đông có từ 8-9 dòng họ, bản ít 2-3 dòng họ, thể như ở Khuổi Đăm có 6 họ
(Phùng, Triệu, Bàn, Đặng, Lý, Ngô) còn ở Khuổi Vùa có hai họ (Triệu, Đặng). Mỗi
họ có một người đàn ông đứng đầu gọi là trưởng họ. Trưởng họ là người có uy
tín, gương mẫu về đạo đức, có khả năng cúng bái và am hiểu phong tục. Gia đình
trưởng họ có bàn thờ tổ tiên trên đó có dụng cụ để hành lễ và có quyển sách chữ
Nôm ghi chép về cách thờ cúng, các thành viên trong họ đều có ý thức về dòng họ
của mình. Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, hằng năm mỗi họ thường tổ chức lễ
cúng dòng họ (là miên) tại nhà trưởng họ. Người cùng họ cư trú rải rác
nhiều nơi trong làng chứ không quần tụ tại một khu vực như ở các dân tộc khác,
điều này có thể phụ thuộc vào thời điểm hạ sơn của từng gia đình.
Trong xã hội truyền thống, mỗi bản người Dao đều có người đứng đầu
gọi là Pò Thun, một chức danh giống như trưởng bản ngày nay. Theo
tục lệ, trưởng bản đều do dân bầu ra trong một buổi họp chung bằng hình thức biểu
quyết.
Trưởng
bản thường là người có uy tín, biết cúng bái, am hiểu các phong tục tập quán,
có kinh nghiệm sản xuất và có quan hệ rộng rãi không chỉ với bà con trong bản
mà còn với cả người đứng đầu các bản khác. Người ta chỉ tổ chức bầu lại khi
người đó qua đời, hoặc trong thời gian đảm đương công việc để dân bản mất đoàn
kết, xảy ra mất mùa liên tiếp, bệnh dịch ốm đau kéo dài. Xưa kia trưởng bản
thường cha truyền con nối. Trong thời gian từ 1960 đến 1985 công việc ở bản do
hợp tác xã, đội sản xuất đã đứng ra quán xuyến, vai trò của trưởng bản trở nên
mờ nhạt. Kể từ sau khoán 10 khi mà các hợp tác xã và đội sản xuất
gần như tan rã, thì lúc đó hệ thống các trưởng bản được xác lập lại (từ năm
1990). Hiện nay vai trò của trưởng bản ở người Dao chi phối mạnh mẽ đến hoạt
động của bản. Có thể coi trưởng bản là chân rết của chính quyền cấp xã.
Tại hai bản mà chúng tôi đến, đều có cách thức chọn trưởng bản
giống nhau, người dân tự lựa chọn bằng bỏ phiếu kín, thông thường người ta chọn
lấy 2-3 người có tiêu chuẩn như nhau, sau khi kiểm phiếu ai nhiều phiếu hơn sẽ
làm trưởng bản. Người được chọn để bầu trưởng bản phải đạt các tiêu chuẩn như
sau:
- Có uy tín, làm được việc, biết ngoại giao.
- Có tính trung thực, thật thà và có sức khỏe.
- Tận tụy vì dân, biết xử lý công bằng.
- Người của dòng họ lớn nếu không, phải là người biết làm ăn giỏi.
- Đã trải qua công tác xã hội.
- Thông thạo tiếng phổ thông.
Nhiệm vụ của trưởng bản trước kia cũng như hiện nay là hướng dẫn
mọi thành viên trong bản lao động sản xuất, lao động công ích, tổ chức, cắt cử
người bảo vệ chăm sóc mùa màng, đất đai và các nguồn tài nguyên của cộng đồng,
xem lịch, dự đoán thời tiết, thông báo những ngày kiêng kỵ liên quan đến canh
tác nông nghiệp. Ông ta cũng là người gieo hạt lúa đầu tiên mở đầu cho việc
trồng trọt gọi là khai đao. Duy trì trật tự trị an, giải hòa các vụ
xích mích, củng cố mối đoàn kết trong cộng đồng. Theo dõi thực hiện các luật
tục trong hôn nhân gia đình, tổ chức đám tang và chứng kiến lễ thành hôn của
đôi trẻ và lễ cấp sắc cho các thành viên nam. Đứng ra điều khiển các hiệu lệnh
khi cần thiết triệu tập dân làng họp hoặc có công việc khẩn cấp. Hiện nay
trưởng bản còn thêm một số nhiệm vụ khác nữa như phụ trách lực lượng dân quân
du kích bản, tiếp nhận các chủ trương, chính sách của Nhà nước thông qua xã để
truyền đạt đến người dân.
Trưởng bản được hưởng 10.000 đ/tháng trợ cấp của Nhà nước, ngoài
ra theo quy định của xã, mỗi gia đình nộp 6kg thóc/năm. Ở Khuổi Đăm sau lễ
cưới, đám tang trưởng bản còn được gia chủ biếu miếng thịt lợn có dính một cái
xương sườn gọi là pun áo (thịt dành riêng cho trưởng bản).
Khi trong bản có xảy ra xích mích vì trâu bò phá hoại hoa màu mà
hai gia đình không thể giảng hòa với nhau được thì trưởng bản sẽ đứng ra hòa
giải. Trong trường hợp có xích mích giữa thành viên của hai bản. Việc hòa giải
được tiến hành với sự có mặt của trưởng bản hai bản đó và những người có liên
quan, lúc này ý kiến của các trưởng bản có tác dụng quyết định làm cho các xích
mích được giải quyết, tình đoàn kết giữa những người liên quan được hàn gắn
lại. Nhìn chung việc giải quyết xích mích thường được giải quyết trong nội bộ
bản rất ít khi phải qua chính quyền xã.
Ở người Dao ngoài trưởng bản thì người già cũng có tiếng nói quan
trọng, gặp điều gì vướng mắc không giải quyết nổi trưởng bản phải hỏi ý kiến.
2. Nghi lễ gia đình
Nghi lễ gia đình ở người Dao gồm ba thành tố cơ bản: sinh đẻ, cưới
xin và tang ma, ngoài ra còn có lễ cấp sắc. Cho đến nay, tất cả các nghi lễ
trên vẫn được vận hành theo phong tục của dân tộc. Chẳng hạn, trong cưới xin có
nhiều tục lệ và chi phí rất tốn kém, tổ chức ăn uống linh đình, kéo dài hai ba
ngày. Đặc biệt trong lễ cưới có tục biếu thịt lợn gọi là xình chào mà
ở cả hai bản Dao đến nay vẫn thịnh hành. Trước hết, nhà trai phải biếu bố mẹ cô
gái 24kg thịt lợn, tiếp theo đó là các thành viên trong họ nhà cô gái như ông
cậu: 6kg, chú: 6kg, cô: 4kg, dì: 4kg, bác: 5kg, anh trai cả: 4kg, chị gái: 4kg,
ngoài ra đoàn đưa dâu của nhà gái có bao nhiêu người thì mỗi người được nhà
trai biếu1kg thịt, riêng phù dâu được 1,8kg và thầy cúng được 6kg. Theo nhiều
người già kể lại thì trước đây lễ vật gấp 3 lần, hiện nay đã giảm đi nhiều. Sở
dĩ không bỏ được vì theo quan niệm của người Dao người con gái đến tuổi lấy
chồng, thì bố mẹ cô ta có quyền được gả bán. Bên cạnh những nghi lễ đượm màu
sắc huyền bí trong đám cưới người Dao cũng có nhiều điểm biểu hiện tính nhân
văn sâu sắc thể hiện ở chỗ sau đám cưới, nhà trai bao giờ cũng tặng cho bố mẹ
cô dâu từ 3 đến 4 đồng bạc trắng gọi là tiền trả ơn trái tim bố và tiền sữa mẹ.
Trong lĩnh vực tang ma nhiều nếp cũ và những tập tục từ ngàn đời
xưa truyền lại vẫn được người Dao duy trì. Người đã được cấp sắc khi qua đời
được bắn ba phát súng để báo cho Ngọc Hoàng biết. Nếu người qua đời là trưởng
bản, khi qua đời, nóc nhà được chọc thủng, gia đình cử người giương ô đặt ngay
vào lỗ thủng đó rồi mới bắn ba phát súng báo lên Ngọc Hoàng. Sau đó các nghi lễ
liên quan đến cái chết mới được tiến hành. Nhiều đám tang gia chủ mổ lợn, trâu,
dê, ăn uống linh đình, làm như vậy thì con cái mới có hiếu với bố mẹ. Cũng bởi
vậy, nhiều gia đình nghèo không đủ ăn khi bố mẹ hoặc người thân qua đời cũng cố
sắm cho đủ lễ vật. Do đó mà mang công mắc nợ triền miên.
3. Lễ
cấp sắc
Trong hai bản Dao mà chúng tôi đến chỉ có bản Khuổi Đăm nơi người
Dao Đỏ thuộc nhóm đốt than sinh sống vẫn còn duy trì lễ cấp sắc. Trong cuộc đời
người Dao ở đây, lễ cấp sắc đóng vai trò rất quan trọng. Tất cả con trai lớn
lên đều phải trải qua lễ này, chỉ khi nào qua lễ cấp sắc người đó mới được mọi
người xung quanh công nhận đã trưởng thành, được xem là thành viên chính thức
của họ hàng mình, của dân tộc mình. Kể từ đây anh ta có đầy đủ tư cách tham gia
các hoạt động của gia đình, cộng đồng, anh ta mang một cái tên “âm” mà người
thầy cúng đặt cho và có thể liên hệ với “ma”. Người nào chưa qua lễ cấp sắc,
không được thờ cúng tổ tiên.
Người được cấp sắc được thầy cúng cấp cho một hoặc hai đạo sắc. Đó
là những tờ giấy bản dán nối nhau khổ 80 x 30cm được viết bằng chữ Hán nội dung
đại loại như sau:
Phần đầu: sơ lược lý lịch người được cấp sắc ngày tháng năm sinh,
nơi sinh, sơ lược gia đình.
Phần hai: quá trình chuẩn bị làm lễ, tên mới đặt, số tử vi.
Phần ba: mười điều giáo huấn mà người được cấp sắc phải tuân theo.
Phần cuối: tên họ các thầy cúng, các thầy đều đóng ấn tín của mình
vào chỗ ghi tên.
Đạo sắc này được người Dao giữ kỹ và rất bí mật, để mất sắc là một
tai họa lớn, mang cho người khác xem là điều tối kỵ. Tuổi cấp sắc thường từ 15
đến 20 tuổi, cũng có trường hợp cá biệt khi lấy vợ rồi mới làm lễ cấp sắc. Lễ
cấp sắc được tiến hành tại gia đình người thụ lễ và do bố mẹ anh ta đứng ra tổ
chức, có thể làm lễ cho một số người cùng một lúc nhưng phải cùng huyết thống
cùng thế hệ. Trước khi làm lễ này các người con trai đều được xem tuổi. Người
ta tiến hành lễ cấp sắc vào dịp cuối năm đó là lúc gặt hái xong, có lương thực
dồi dào và có thời gian rỗi rãi.
Trong lễ cấp sắc bên cạnh những tục lệ và nghi thức huyền bí thì
tính chất giáo dục con người phản ánh rất đậm nét. Vào những ngày làm lễ, các
thầy cúng lần lượt đọc cho các chàng trai nghe nhiều chuyện về nguồn gốc, lịch
sử dân tộc Dao. Ngay từ buổi làm lễ đầu tiên người thầy cúng đã khuyên bảo
người con trai không được làm hại người khác, không được hái hoa, bẻ cây. Trong
ngày thứ 3 của lễ cấp sắc, người con trai còn được các thầy lần lượt khuyên
phải ăn ở cho có nhân đức, hiếu thảo với cha mẹ, biết kính trên, nhường dưới,
phải siêng năng chăm chỉ làm ăn. Anh ta còn được hướng dẫn về phong tục tập
quán của dân tộc mình, cách cúng bái…
Mặc dù mang nhiều ý nghĩa giáo dục, nhưng cấp sắc cũng để lại
nhiều hậu quả, trong đó đáng kể là thiệt hại về vật chất vì lễ cấp sắc là dịp
chi phí tốn kém nhất trong đời người. Một lễ cấp sắc phải tiêu tốn từ 400 đến
500 kg thịt, từ 4 đến 5 tạ gạo nếp dùng để nấu rượu và ăn trong thời gian làm
lễ, hàng chục đôi gà để lễ thầy và ăn uống, những chi phí về giấy, dầu, vải
cũng rất lớn. Đấy là chưa kể sự lãng phí sức lao động của hàng chục người bỏ
sản xuất trong một thời gian dài.
4. Nghi lễ nông nghiệp
Đến nay người Dao Đỏ ở Khuổi Đăm và Khuổi Vùa vẫn còn duy trì
nhiều nghi lễ liên quan đến nông nghiệp. Hằng năm vào dịp Tết Nguyên đán, tất
cả các loại lá đã hái về gói bánh, không dùng hết phải để ở ngoài ngôi nhà, làm
như thế sẽ hạn chế sự phát triển cỏ dại trên trên những đám nương ở vụ sau. Đêm
30 Tết, mọi nhà ngủ muộn hơn ngày thường, nhà nào không thực hiện sang năm mới
ngô lúa bị gió làm đổ ảnh hưởng đến năng suất, nhà đó chịu trách nhiệm trước
cộng đồng, làng bản. Trong mấy ngày tết quần áo, chăn màn, khăn mũ cấm mang ra
phơi ngoài trời, đêm đến đi chơi không được đốt đuốc. Người Dao cho rằng làm
những việc như vậy năm mới sẽ ít mưa.
Khi tra nương xong, người Dao còn có tục cắm nêu với lòng mong ước
cây lúa sẽ mọc cao như cây nêu. Cây nêu đồng thời còn là sự báo hiệu cho thần
thánh biết rằng đám nương ấy đã được gieo trồng, cần phải bảo vệ. Nêu có thể là
một cây vầu con, một cây lau hay một cành cây nào đó. Đối với sản xuất nông
nghiệp trong một năm, người Dao có nhiều ngày kiêng kỵ:
- Ngày 1 tháng 3 ngày ông trời đẻ con (câu ông dần ton)
kiêng không làm nương vì sợ sấm đánh ngã lúa.
- Ngày 3 tháng 3, ngày ông trời làm mưa (dáo ton), vào
ngày này mọi người phải ở nhà, không được đi làm vì sợ rằng ông trời cho mưa to
làm trôi hạt thóc.
- Ngày 26 tháng 3, lập hạ (liêu ả) kiêng đi làm, nếu không
kiêng, trồng lúa sẽ không có hạt.
- Ngày lập thu (lập thiêu) kiêng làm nương, sợ mưa sẽ không
đến nương nhà mình, trồng lúa sẽ không lên.
- Ngày 7 tháng 7, thiết há sảnh thiết. Đây là ngày lúa
trổ bông, kiêng lên nương vì sợ lúa bị lép[2].
Để diệt trừ sâu bệnh người Dao còn tổ chức lễ pháo kiềm vào
một ngày bất kỳ trong tháng 5 hoặc tháng 6 Âm lịch, địa điểm ở một khu rừng gần
bản. Nơi đó, lúc hành lễ, người ta không cho khách và dân bản đến. Trước ngày
làm lễ dân bản tùy theo điều kiện của mỗi gia đình mà đóng góp rượu, hương, xôi
và gà luộc mang đến nhà trưởng bản. Chủ trì buổi cúng có hai thầy cúng, hai
người gọi “ma” và một số người giúp việc do dân cử. Tại nơi đã chọn làm địa
điểm cúng, người ta làm hai đàn cúng trên bày lễ vật và đan hai chiếc cũi, làm
một đòn gánh, một cái nỏ. Trước giờ cúng, thầy cúng lấy giấy bản và mấy hạt gạo
bỏ vào hai cái cũi rồi cử hai người giúp việc gánh cũi, gõ mõ đi đến từng nhà
trong bản để gọi ma. Theo đồng bào có một số ma lười chuyên nằm chờ ở nhà nên
phải đi gọi. Những người làm nhiệm vụ gọi ma đến gần gia đình nhà nào thì dừng
lại gõ mõ và hỏi to để người trong nhà nghe như “nhà có khách không” (mùa
mà khe mài). Lúc đó chủ nhà sẽ trả lời là có hoặc đợi với rồi ra mở cửa,
lấy vài hạt gạo bỏ vào trong cái cũi và giữ trên tay một ít, khi những người
gọi ma đi sang nhà khác thì ném theo và nói “không ở đây hãy đi nhanh đi” (mình
buốt là, mai khu diêm nai). Trường hợp trong nhà không có người trả lời thì
đoàn vẫn bước qua và đi đến nhà khác. Khi nhận được vài hạt gạo, người đón ma
phải nói: hãy đi cùng chúng tôi ăn cỗ (mình lê, chiến nhìa bua mình
nhặn ô lô). Sau khi đã đến hết các nhà, những người này quay về chỗ cúng,
gần đến nơi họ vứt bỏ mũ, đòn gánh và mõ vào rìa đường.
Người Dao quan niệm no mới tiết là tên một loài
chim chuyên làm hại các loại lúa. Vì vậy, hằng năm vào ngày mùng Một tháng Hai
đồng bào thường làm lễ cúng. Đến ngày đó, các gia đình lấy gạo nếp giã làm bánh
giầy, mỗi chiếc bánh làm to bằng miệng chén sau đó lấy nan tre đan thành 4 con
chim, xong lấy bánh cho vào miệng chim rồi mang treo ở 4 góc nhà, làm như vậy
thóc lúa sẽ không bị loài chim này đến phá hoại.
Cứ
tìm được một chỗ đất làm thành một mảnh nương mới, trước khi gieo hạt, người
Dao làm lễ cúng mảnh nương mới (xíp đầy miên). Lễ vật gồm một con gà
trống biết gáy, đồng bào cho rằng gà trống là biểu tượng của sức khỏe, một chai
rượu và một gói cơm nếp có bốn màu (xanh, đỏ, trắng, vàng) tượng trưng cho bốn
mùa (xuân, hạ, thu, đông). Con gà được làm thịt và đem luộc chín. Khi lễ vật đã
chuẩn bị xong người ta đem lên nương, đặt ở gốc cây to hoặc làm một chiếc lán
để cúng. Ông chủ nhà sẽ hành lễ, cầu khấn mùa màng tốt tươi, cầu mong thổ công
phù hộ cho mọi người trong gia đình không gặp phải tai nạn. Cúng xong gà được
chặt thành từng miếng chia cho mọi người có mặt cùng ăn, riêng nắm xôi mang về
nhà và chỉ có gia đình mới được ăn, vì lúa là của gia đình đóq
[1]Dao thắp hương tức là khi cúng tổ tiên gia chủ thắp hương cắm vào bát hương trên bàn thờ, còn Dao đốt than lấy than cúi thay cho hương. Đâv là cách gọi mang tính địa phương.
[2] Những ngày kiêng kỵ tính theo Âm lịch
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.