1. Mở đầu
Quảng Nam ở giữa
miền Trung Việt Nam, phía bắc giáp tỉnh Thừa Thiên - Huế và thành phố Đà Nẵng; phía nam giáp tỉnh Quảng Ngãi và Kon Tum; phía tây giáp nước Cộng hòa Dân chủ Nhân
dân Lào, phía đông là Biển Đông.
Quảng Nam là một vùng đất linh thiêng. Nơi đây là điểm hội tụ linh khí của
non - nước, núi - sông, đồng bằng ven biển. Địa hình Quảng Nam nghiêng dần từ tây sang đông với nhiều dãy núi cao trên 2.000m như núi Ngọc Linh, núi Lum Heo ở phía tây, và dải đồng bằng ven biển ở phía đông… Quảng Nam có hệ thống sông ngòi phong phú với ba hệ
thống sông chính: sông Thu Bồn, sông Tam Kỳ và sông Trường Giang cùng với rất
nhiều hồ lớn: Phú Ninh, Khe Tân, Việt An, Phú Lộc… do
đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho Quảng Nam có cơ hội giao lưu, phát triển kinh tế - xã hội.
Nằm ở trung điểm đất nước theo trục Bắc - Nam, kết hợp với những cửa biển lớn, Quảng Nam đã từng có một thương cảng sầm uất, thu hút đông đảo thương gia từ trong và ngoài nước đến buôn bán. Đô thị cổ Hội An trở thành nơi “hội thủy, hội nhân và hội tụ văn hóa” (cả xưa và nay) của người Việt, người Hoa, người Nhật Bản và người châu Âu (Pháp, Bồ Đào Nha…) từ thế kỷ XVI. Những nét văn hóa tiêu biểu nhất của các cộng đồng dân tộc chung sống tại Hội An đã được hòa trộn một cách tinh tế, hài hòa trong những dấu tích còn lại. Hội An cũng là một trong số rất ít những đô thị cổ tại Việt Nam được bảo tồn tương đối nguyên vẹn với một tổng thể kiến trúc phong phú, đa dạng: nhà cổ, hội quán, chùa, cầu… Quảng Nam cũng là vùng đất nằm trong khu vực văn hóa Sa Huỳnh thời tiền sử. Vương quốc Chămpa của người Chăm tồn tại trong suốt 17 thế kỷ (từ thế kỷ II đến thế kỷ XIX) đã để lại cho Quảng Nam Thánh địa Mỹ Sơn với hơn 70 ngôi đền tháp mang nhiều phong cách kiến trúc điêu khắc tiêu biểu cho từng giai đoạn lịch sử của Vương quốc Chămpa[1]. Các di tích này không chỉ có giá trị về mặt văn hóa, nghệ thuật mà còn có ý nghĩa lịch sử quan trọng, thể hiện sự phát triển lâu đời của một vùng văn hóa Đàng Trong.
Theo thống năm 2018, toàn
tỉnh có 2 di sản thế giới, 64 di tích quốc gia, trong đó có 4 di tích Quốc gia
gia đặc biệt, và 335 di tích cấp tỉnh… Trong thời kỳ Đổi mới, Quảng Nam đã rất
quan tâm, tạo điều kiện để bảo vệ, phát huy các di sản văn hóa vật chất của địa
phương. Phần lớn các di tích đã được đầu tư chống xuống cấp, phục hồi, tôn tạo ở
các mức độ khác nhau theo Luật Di sản văn hóa... Nhiều giải pháp về cơ chế, chính sách đã được
ban hành bằng các văn bản quy phạm pháp luật như Nghị quyết số
161//2015/NQ-HĐND, ngày 07/07/2015 của Hội đồng nhân dân tỉnh về đầu tư tu bổ
di tích Quốc gia và di tích cấp tỉnh giai đoạn 2016 - 2020[2]; Quyết định số 08/2019/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh, ngày 02/5/2019
ban hành Quy chế về quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn
hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Quảng Nam[3].
Quy chế gồm 6 Chương, 28 Điều quy định hoạt động quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh đã được xếp hạng và công trình xây dựng, địa điểm, cảnh quan thiên nhiên, khu vực thiên nhiên trong danh mục kiểm kê di tích thuộc thẩm quyền quản lý của UBND tỉnh Quảng Nam; trách nhiệm và mối quan hệ phối hợp của các cấp, các ngành, các địa phương, chủ sở hữu di tích và Nhân dân trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị các di tích trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
2. Các vấn đề và xu hướng chung trong bảo tồn và phát huy di sản văn hóa vật thể ở Việt Nam
2.1.
Giải quyết hài hòa mâu thuẫn giữa bảo tồn và phát triển
Trong bối cảnh đô thị
hóa, kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, việc bảo tồn và phát huy những giá
trị di sản ngày càng trở nên cấp bách. Một khi không nhận thức được giá trị di
sản và pháp luật về di sản, người ta có xu hướng đặt phát triển thành ưu tiên
hàng đầu, dẫn đến các hiện tượng tiêu cực như bỏ mặc, xâm lấn hoặc phá hoại di
sản. Mặc dù vậy, có một sự thật hiển nhiên là kinh tế đi lên lại tạo nguồn lực
để tu bổ di sản. Trong quá trình phát triển du lịch, các nguồn thu thông qua dịch
vụ du lịch như nhà hàng, khách sạn, vận tải hành khách, buôn bán hàng thủ công
mỹ nghệ, vui chơi giải trí… tăng lên hàng năm đã trở thành động lực quan trọng
để đầu tư cải thiện tình trạng di sản. Sự phát triển du lịch tại các điểm di sản
văn hóa và thiên nhiên góp phần thúc đẩy các ngành giao thông, hàng không hoạt
động mạnh mẽ hơn. Mặt khác, khai thác khía cạnh giáo dục của di sản sẽ giúp
phát triển nhân cách con người và đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng, từ đó
phục vụ trực tiếp cho phát triển.
Khi nói đến phát triển di
sản tức là không chỉ nói đến phát huy giá trị di sản hay phương thức khai thác
di sản, mà ở một cấp độ cao hơn chính là sự phát triển luôn được đặt trong một
bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, không phải lúc nào người ta
cũng giải quyết được một cách hài hòa giữa bảo tồn di sản văn hóa vật chất với
phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là trong bối cảnh đô thị hóa, công nghiệp
hóa và toàn cầu hóa. Thực tiễn đã chứng minh các di sản văn hóa vật chất bị đe
dọa nhiều nhất khi nằm trong một khu dân cư đô thị đang phát triển với sự bùng
nổ của các dự án xây dựng hạ tầng, giao thông...
Việt Nam là một quốc gia
điển hình ở Đông Nam Á, nơi các cộng đồng địa phương sống trong phần lớn các
khu di sản thế giới, di tích cấp Quốc gia và cấp Quốc gia đặc biệt… Nhưng do
nhu cầu cuộc sống bức thiết, nhiều ngôi nhà xuống cấp, cũ nát; trong mỗi gia
đình các thành viên tăng thêm, cần có thêm chỗ ở; chưa kể nhiều gia đình làm
nông nghiệp còn phải có diện tích chăn nuôi, phơi phóng... Cũng chính vì lý do
này mà mấy năm trước, người dân làng Đường Lâm (Hà Nội) và phố cổ Đồng Văn (Hà
Giang) từng viết đơn xin “trả” danh hiệu Di tích kiến trúc, nghệ thuật Quốc
gia.
Với những trường hợp này
hay với bất cứ một di sản vật thể nào khác, phương pháp tiếp cận cần thiết nhất
là phải gắn bảo tồn với phát triển và ngược lại. Di sản phải là một phần của cuộc
sống đương đại. Phải chuyển phương pháp tiếp cận từ thụ động sang chủ động, từ gìn
giữ, duy trì, bảo tồn và trùng tu công trình di sản sang tôn tạo, cải tạo và
tái phát triển. Cách tiếp cận này nhằm nâng cấp và thay đổi tình trạng của di sản
phù hợp với nhu cầu phát triển chung nhằm đưa những công trình lịch sử trở lại
với đời sống. Ngoài ra, nếu việc bảo tồn di sản không được coi trọng ngang bằng
hoặc hơn việc khai thác di sản thì sẽ dẫn đến tình trạng phá hoại di sản, làm
cho di sản bị xuống cấp, mai một nhanh chóng. Có trường hợp, di sản văn hóa,
thiên nhiên quốc gia bị xâm lấn, tàn phá (như trường hợp xây cầu trên núi ở di
sản Tràng An năm 2018; lăng mộ bị san phẳng để làm bãi đỗ xe ở Huế năm 2017;
xây nhà văn hóa xâm hại di tích Yên Tử năm 2015…) do các địa phương chỉ coi trọng
sự tăng trưởng kinh tế chứ ít quan tâm đến việc giữ gìn cảnh quan môi trường và
các di sản văn hóa.
Để giải quyết các mâu thuẫn
này, điều quan trọng nhất là phải có sự quy hoạch khoa học, khách quan và công
tác quản lý chặt chẽ. Việc lập các đề án trùng tu di sản, cũng như các dự án
phát triển hạ tầng chỉ có thể thực hiện được yêu cầu bảo tồn và phát huy giá trị
di sản khi có sự tham vấn của các cơ quan, các nhà khoa học thuộc cả hai lĩnh vực:
di sản và phát triển. Việc đẩy mạnh nghiên cứu, thực thi pháp luật và chính
sách quốc gia, quốc tế cũng là một công cụ hữu ích để bảo đảm phát triển kinh tế
- xã hội mà vẫn bảo tồn và phát huy được giá trị di sản. Khi triển khai các dự
án phát triển trong khu vực có di tích lịch sử - văn hóa hoặc biết dưới lòng đất
có di tích khảo cổ học, chủ dự án, ngay từ đầu phải phối hợp với cơ quan quản
lý nhà nước về di sản văn hóa tổ chức việc bảo tồn di tích hoặc triển khai các
hoạt động khai quật khảo cổ học trước khi triển khai dự án.
2.2. Nâng cao trách nhiệm và hiệu quả phối hợp trong công
tác quản lý di sản
Trong thời gian qua, các
chính sách của Đảng, Nhà nước đã cho thấy tác dụng tích cực trong bảo tồn và
phát huy di sản văn hóa, ngăn chặn tình trạng xuống cấp của di tích, sự mất mát
của các hiện vật có giá trị khoa học. Bằng chính sách xếp hạng của Nhà nước,
nhiều di tích có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa và khoa học dưới sự bảo
vệ của pháp luật. Chương trình mục tiêu quốc gia tu bổ tôn tạo di tích ngày
càng có hiệu quả, nhiều di tích lịch sử đã được cứu thoát khỏi tình trạng xuống
cấp nghiêm trọng[4].
Cùng với đó là việc từng bước hoàn chỉnh hệ thống luật về di sản và các quyết định
có liên quan; việc tổ chức sắp xếp lại bộ máy quản lý nhà nước cho phù hợp với
chức năng, nhiệm vụ được giao; huy động được sự tham gia của toàn xã hội đối với
hoạt động giữ gìn, phát huy giá trị di sản văn hóa...
Bài học ở nhiều nơi cho
thấy ngay khi các cơ quan chức năng nới lỏng việc quản lý di sản là các biểu hiện
xâm phạm sẽ lại nổi lên, dẫn đến nhiều di tích tiếp tục bị xâm phạm, lấn chiếm,
cổ vật bị đánh cắp, làm hư hại, thất thoát khá nặng nề. Việc thiếu một định hướng
chuẩn mực về quản lý văn hóa dẫn đến không ít hiện tượng phản cảm trong bảo tồn
và phát huy giá trị của các di tích lịch sử - văn hóa như việc cung tiến đồ thờ
cúng, bày đặt linh vật, trang trí tùy tiện. Những sai phạm này làm suy kiệt,
làm nghèo đi giá trị di tích, đến phát triển bền vững trong hoạt động bảo tồn
và phát huy giá trị di sản. Mặt khác, Việt Nam hiện đang tiến hành quản lý văn
hóa trong cơ chế kinh tế thị trường. Sự chồng chéo về cơ chế quản lý và phân
công, phân cấp nhiệm vụ đã tạo nên những mâu thuẫn, gây bất lợi cho di sản cả
trong công tác bảo tồn di tích và phát triển du lịch. Một trong những chủ đề được
quan tâm gần đây là sự hạn chế về thẩm quyền (cụ thể là thiếu chức năng của các
cơ quan quản lý nhà nước) của các ban quản lý di sản tại địa phương, ngoài ra
còn là cơ chế quản lý các di sản (đặc biệt là di sản thế giới) chưa thống nhất.
Để kết nối hoạt động của các cơ quan công quyền với các cơ quan quản lý di sản,
cần thiết phải xác định trách nhiệm quản lý thuộc về lãnh đạo các cấp địa
phương, thay đổi cơ chế quản lý nhà nước để tăng cường kết nối và trao truyền
cho các ban quản lý di sản.
2.3. Yếu tố con người phải được đưa lên hàng đầu trong
công tác bảo vệ di sản
Không thể bảo tồn và phát
huy di sản một cách hiệu quả nếu những người có quyền hạn không nhận thức đúng
về tầm quan trọng hay giá trị của di sản. Trong những thập niên trước năm 1990,
có những định kiến tồn tại trong bộ máy quản lý hành chính về việc tại sao lại
phải bảo tồn di sản của “bọn vua chúa bán nước”. Để Cố đô Huế được công nhận là
di sản là cả một quá trình vận động lâu dài nhằm thay đổi nhận thức rằng đây là
di sản văn hóa của dân tộc chứ không phải chỉ là di sản của một triều đình
phong kiến. Tương tự như vậy, có những di tích gắn với chế độ ngụy quyền một thời
bị bỏ mặc, song cuối cùng được thừa nhận như những di sản đóng vai trò là chứng
tích tội ác. Việc phá bỏ các rào cản về quan điểm chính trị về giá trị di sản ở
trung ương lẫn địa phương có thể đem đến sự thay đổi toàn diện về tình trạng của
di sản đó.
Vấn đề thứ hai là trình độ
kỹ thuật, năng lực chuyên môn của những người thực hiện công tác bảo vệ, gìn giữ
di sản. Công tác di sản là cả một loại khoa học tổng hợp giữa các lĩnh vực tự
nhiên và xã hội - nhân văn, không đơn giản chỉ là những hành động có thể quy về
một trật tự thống nhất mà mọi cá nhân qua một số lớp đào tạo nghiệp vụ đều thực
hiện được. Trong bối cảnh hiện nay, đội ngũ cán bộ chuyên môn ở một số cơ quan
quản lý di sản còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. Việc học tập chuyên
môn, ngoại ngữ của một bộ phận cán bộ, nhân viên thiếu bài bản, chỉ nhằm phục vụ
những lợi ích trước mắt, không mang tính chuyên sâu, tính thực tế để đáp ứng những
đòi hỏi chuyên môn cao của ngành. Bởi vậy mà ở không ít nơi, trong khi tiến
hành bảo tồn, trùng tu, người ta đã không cẩn thận, thiếu trách nhiệm, thiếu
năng lực chuyên môn, làm biến dạng, mất giá trị di tích.
Vấn đề trên đặt ra mục
tiêu lớn cho xây dựng và phát triển nguồn nhân lực cho bảo tồn và phát huy giá
trị di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh là xây dựng đội ngũ cán bộ
quản lý và chuyên môn có tính chuyên nghiệp cao, một đội ngũ thợ lành nghề được
trang bị và nắm vững những quy định của Luật Di sản văn hóa và những văn bản
quy phạm pháp luật có liên quan, cũng như những quy định của Công ước và Hiến
chương Liên hợp quốc về Di sản thế giới; được trang bị các phương pháp khoa học
về bảo tồn truyền thống và hiện đại; có năng lực phối hợp và liên kết với các
chuyên gia trên nhiều lĩnh vực khác nhau, cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội
nhân văn để quản lý và triển khai trên thực tế các hoạt động quy hoạch, thiết kế,
bảo quản, tu bổ, tôn tạo, phục hồi di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh.
Đối
với các khu di tích và danh lam thắng cảnh hiện có dân cư sinh sống, thì phải
coi cộng đồng dân cư là đối tượng cần được đào tạo, là nguồn nhân lực cho phát
triển bền vững thông qua việc hướng dẫn cho họ nhận biết được giá trị của di sản;
đào tạo người có tay nghề, có kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn tham gia vào
công tác bảo tồn, hướng dẫn viên du lịch… góp phần cải thiện và nâng cao đời sống
cộng đồng để cộng đồng tham gia có trách nhiệm vào công tác bảo vệ và phát huy
giá trị di sản.
Bên cạnh đó, cần phải hợp
tác chặt chẽ với các trường đại học, viện nghiên cứu, các tổ chức của Hàn Quốc,
Mỹ, Nhật Bản và Ba Lan để học hỏi và tiếp nhận kỹ thuật sản xuất vật liệu,
trùng tu di tích nhằm đảm bảo công tác bảo tồn có quy trình chuẩn, qua đó nâng
cao giá trị của di sản.
2.4.
Xã hội hóa rộng rãi việc bảo tồn và phát huy di sản
Do
điều kiện khách quan của đất nước, do các di sản văn hóa vật thể trên cả nước
quá lớn, nên kinh phí hằng năm của Nhà nước dành cho di sản ở các địa phương vẫn
còn ít so với nhu cầu thực tế, dẫn đến tình trạng hàng nghìn di tích trên cả nước
chưa được tu bổ. Một bộ phận lớn các di tích lịch sử - văn hóa được đầu tư mới
chỉ đáp ứng được mục tiêu gia cố, chống xuống cấp cục bộ chứ chưa đủ khả năng
thực hiện các dự án tổng thể nhằm tạo điều kiện cần và đủ để di tích tồn tại
lâu dài.
Có nhiều di sản vật thể vẫn được người
dân tự giác chú ý bảo vệ, đóng góp cho tôn tạo và phát triển. Đối với những trường
hợp này, việc phát huy quyền làm chủ của người dân địa phương song song với sự
quản lý của Nhà nước là hết sức quan trọng. Bởi vì con người là trung tâm của
quá trình phát triển, di sản văn hóa phải được gắn với con người và cộng đồng
cư dân địa phương (với tư cách là chủ thể sáng tạo văn hóa và chủ sở hữu tài sản
văn hóa) thì mới có giá trị thực tiễn và lành mạnh. Sự tùy tiện, không khoa học,
làm hộ, làm thay, thiếu sự tham gia của cộng đồng là một bài học đắt giá cho mọi
trường hợp, nhất là với công tác bảo tồn và phát huy các di sản trong phát triển.
Sự đồng thuận trong từng hành động của người dân ngày càng được xem là yêu cầu
hàng đầu khi khai thác di sản. Tuy nhiên, không phải lúc nào việc thực hiện ý
kiến của các “mạnh thường quân” cũng đem lại hệ quả tốt. Xã hội hóa mà không gắn
với quản lý nhà nước chặt chẽ thì sẽ dẫn đến tình trạng lộn xộn, nhập nhằng, thậm
chí phô trương phản cảm.
Đối với các di sản vật thể
không còn “sống” trong cộng đồng, chẳng hạn như những phế tích, di chỉ, những địa
điểm khảo cổ dưới nước..., việc huy động các nguồn lực xã hội hóa sẽ yêu cầu ở
một cấp độ cao hơn. Xu hướng đa dạng hóa các nguồn vốn đã cứu nguy cho không ít
di sản bị lãng quên, bao gồm cả các nguồn vốn có yếu tố quốc tế. Để làm được điều
này, nhất thiết phải nhắc đến vai trò tiên phong của cơ quan quản lý di sản ở địa
phương trong việc kêu gọi các nhà đầu tư, cũng như việc tạo điều kiện cho các tổ
chức bảo tồn và phát triển được tiếp cận di sản, bao gồm cả những di sản nằm ở
khu vực nhạy cảm.
Công tác xã hội hóa không
chỉ đơn giản là khuyến khích đa dạng hóa ngân quỹ dành cho di sản, mà quan trọng
hơn cả, đó là khuyến khích sự tham gia của cộng đồng. Bất cập lớn nhất hiện nay
cho việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa vật thể là nhận thức và sự tham gia
của cộng đồng chưa thực sự đồng đều, vững chắc và có lợi cho sự nghiệp bảo tồn
và phát huy giá trị di sản. Tại các địa phương có di sản văn hóa và thiên
nhiên, về mặt hình thức, phần lớn mọi người đều vui mừng khi địa phương mình có
di sản văn hóa, ý thức trách nhiệm của cộng đồng với việc bảo vệ di sản được nâng lên. Nhưng trên thực tế, những nhận
thức này chưa tương xứng với nhu cầu bảo vệ di sản. Nhiều người quan tâm đến việc
được hưởng lợi gì từ di sản hơn là trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với việc
thực thi luật bảo vệ di sản. Việc bảo vệ di sản do đó chủ yếu vẫn là những biện
pháp hành chính của các cơ quan quản lý.
Có một vấn đề đang đặt ra
là Nhà nước phải sớm công nhận quyền sở hữu/quyền sử dụng của cộng đồng hoặc
người trụ trì các đình, chùa, miếu hoặc các công trình văn hóa công cộng khác,
để từ đó làm cơ sở pháp lý cho việc quản lý các công trình này, không để tình
trạng tranh chấp đang xảy ra trong nội bộ cộng đồng có chiều hướng gia tăng đối
với diện tích đất thuộc các công trình văn hóa.
3.
Kinh nghiệm trong bảo tồn và phát huy di sản văn hóa vật thể nhìn từ trường hợp
hai Di sản thế giới ở Quảng Nam
3.1.
Đô thị cổ Hội An
Câu chuyện về bảo tồn,
phát huy giá trị nhà cổ ở các làng cổ là một chủ đề “nóng” đã nhiều lần thu hút
sự quan tâm của dư luận. Đây là một loại hình đặc biệt của di sản văn hóa vật
thể, khi di tích gắn chặt với đời sống dân sinh. Việc giải quyết kịp thời và
hài hòa giữa việc bảo tồn và đáp ứng nhu cầu cuộc sống của người dân là yêu cầu
hết sức bức thiết, là trọng tâm của trục vấn đề xoay quanh di tích làng cổ. Vụ
việc dân làng Đường Lâm, thị xã Sơn Tây (Hà Nội) và phố cổ Đồng Văn (Hà Giang)
gần đây xin trả lại danh hiệu di sản là một ví dụ điển hình cho những rắc rối
liên quan đến mâu thuẫn giữa mong muốn xây dựng, sửa chữa nhà ở của người dân với
những quy định về bảo tồn di sản. Trước Đường Lâm, Hội An (Quảng Nam) cũng phải
đối mặt với thách thức tương tự, song từ thực tế qua nhiều năm qua ở đây đã chứng
minh rằng hoàn toàn có thể giải quyết được vấn đề này một cách hiệu quả. Nguyên
tắc bảo tồn tối đa tính chân xác và nguyên vẹn của các di tích văn hóa đã được
tuân thủ một cách chặt chẽ hết mức có thể ở khu di tích nổi tiếng nay.
Đô thị - thương cảng Hội
An là kết quả của hơn 2.000 năm lịch sử khai phá, điểm gặp gỡ giao lưu giữa các
nền văn hóa Chămpa, Việt, Hoa, Nhật, Ấn Độ, Đông Nam Á và phương Tây… Bên cạnh
giá trị văn hóa phi vật thể độc đáo, đây còn là nơi tập trung mật độ di tích
dày đặc với hơn 1.360 di tích các loại, chủ yếu là di tích kiến trúc nghệ thuật.
Được công nhận Di tích lịch sử văn hóa quốc gia năm 1985, nhưng tới đầu những
năm 1990, Hội An mới chỉ có những khu phố cổ xập xệ, gần 1.000 ngôi nhà cổ và
hơn 200 đình, chùa, miếu mạo có tuổi thọ hàng trăm năm đang ở trong tình cảnh
xuống cấp, có thể sập bất cứ lúc nào. Trong những ngôi nhà cổ, tình trạng phổ
biến là các gia đình 4 - 5 thế hệ sống chen chúc, chật chội với điều kiện sinh
hoạt rất khó khăn. Chưa kể là vào mùa mưa hàng năm, ngay sau khi bão dứt, cư
dân phố cổ cùng quần thể kiến trúc nhà cổ lại đối mặt với lũ lụt do nước mưa từ
thượng nguồn đổ về, nước biển dâng cao và gần đây là sự xả lũ đồng loạt của các
thủy điện.
Đứng trước khó khăn kể
trên, ngay Hội An được công nhận là di sản, chính quyền thành phố Hội An (trước
đây là thị xã) đã xây dựng “Quy chế bảo tồn di tích Khu phố cổ Hội An” và tổ chức
Hội thảo khoa học quốc gia về Hội An vào tháng 7-1985. Tiếp theo là sự ra đời của
Ban Quản lý di tích và Dịch vụ du lịch Hội An vào tháng 2-1986. Hệ thống quản
lý di sản ở phố cổ Hội An được xem là một trong những hệ thống hoạt động có hiệu
quả nhất ở Việt Nam hiện nay, bao gồm những quy trình được xác định rõ ràng,
phân công công việc và trách nhiệm cụ thể cho từng cá nhân, đơn vị trong việc
quản lý và bảo tồn từng di tích cụ thể. Mỗi đơn vị có nhiệm vụ và trách nhiệm
khác nhau như ban hành chính sách và thực hiện chính sách. Nền tảng quản lý nhà
nước chi tiết, đồng bộ và được điều chỉnh gần với thực tiễn của địa phương là
cơ sở hỗ trợ có hiệu quả cho hoạt động khai thác di sản văn hóa gắn với phát
triển du lịch ở địa phương nhiều năm qua. Nếu không nhờ có hệ thống quản lý nhà
nước khá đồng bộ này, Hội An khó có thể trở thành một điểm đến du lịch văn hóa
đạt tầm quốc tế như vị trí hiện nay[5].
Ở Hội An, tùy thuộc vào từng
loại di tích và hiện trạng của chúng mà các di tích cũng đòi hỏi các biện pháp
can thiệp bảo tồn khác nhau. Các di tích ở Hội An được phân thành 5 loại dựa
theo giá trị văn hóa và mức độ nguyên trạng của chúng. Toàn bộ khu phố cổ Hội
An được chia thành hai khu vực: Bất kỳ một sự thay đổi, di chuyển hoặc cải tạo
nào tiến hành trong khu vực 1 đều bị cấm và khi các di tích này được sử dụng,
phục hồi hoặc sửa chữa cần phải tuyệt đối đảm bảo tính chân xác của di tích
trên bốn phương diện: kỹ thuật, thiết kế, nguyên liệu và cấu trúc. Ở khu vực 2,
mỗi sửa chữa, cải tạo, phục hồi và cả việc lên kế hoạch phải được kiểm soát nhằm
đảm bảo hoặc tăng giá trị và vẻ đẹp của tổng thể khu di sản[6]. Đối với những công trình
kiến trúc cổ thuộc hạng đặc biệt và hạng 1 như Chùa Cầu, Nhà cổ số 80 trên đường
Trần Phú, Nhà cổ Tấn Ký, nhà cổ Phùng Hưng số 4 đường Nguyễn Thị Minh Khai, mọi
sự cải tạo hay phục hồi đều chỉ được tiến hành khi thực sự cần thiết và khi tiến
hành đòi hỏi phải đảm bảo tính chân xác của từng chi tiết, phần và cả tổng thể
cấu trúc di tích.
Thời gian trước đây, nhiều
gia đình ở Hội An do áp lực cuộc sống đã bất chấp lệnh cấm, tự ý lén lút phá bỏ
nhà cổ và xây mới, khiến chính quyền buộc phải ra lệnh cưỡng chế trong sự oán
trách của người dân. Sau khi nghiên cứu tình hình, quán triệt tư tưởng, những
người có trách nhiệm đã xác định biến Hội An là địa phương đi đầu trong việc
thúc đẩy phát triển bền vững hài hòa lợi ích giữa con người với việc giữ gìn và
phát huy di sản, ưu tiên số một là phải đảm bảo lợi ích cho người dân, để họ có
thể hưởng lợi từ di sản. Với khoảng 90% ngôi nhà thuộc sở hữu tư nhân, Hội An
có thể coi là một di sản tư nhân, do nhiều cá nhân, hộ gia đình, tổ chức làm chủ.
Nhận thức được sự thay đổi sở hữu là quy luật tất yếu của quá trình phát triển,
chính quyền đã tạo điều kiện cho những người chủ mới (qua chuyển nhượng, mua
bán) trở thành những người chủ thực sự, gắn bó với Hội An, bằng cách cho họ được
thu lợi một phần (trực tiếp hoặc gián tiếp) từ tiền bán vé và các hoạt động
kinh doanh như nhà hàng, quán cà phê...; đồng thời hỗ trợ kinh phí trùng tu nhà
cửa ưu tiên theo nguyên gốc. Chính quyền ban hành chính sách về mức hỗ trợ kinh
phí trùng tu từ 30 - 75%, thậm chí 100%
tùy theo mức độ hư hại của di tích và tùy theo vị trí của ngôi nhà. Kinh
phí hỗ trợ trùng tu và giãn dân lấy phần lớn từ việc bán vé tham quan, có sự hỗ
trợ một phần của ngân sách Trung ương và địa phương.
Ngoài ra, việc khuyến
khích người dân kinh doanh các mặt hàng phục vụ du lịch một cách bài bản và có
chọn lọc đã giúp người dân không chỉ đổi đời mà còn thay đổi nhận thức. Một khi
thấy được giá trị di sản do ông bà, tổ tiên để lại, người dân phố cổ không chỉ
tự hào mà còn từng bước tìm cách khai thác giá trị di sản một cách tích cực
hơn, đồng thời ra sức bảo vệ, giữ gìn di sản. Để tạo thu nhập cho những hộ dân
sống trong ngõ, hẻm - nơi người dân không có nhiều nguồn thu từ du lịch, chính
quyền Hội An đã đặt những đối tượng này ở mức ưu tiên cao trong hoạt động trùng
tu di tích, đồng thời có những cơ chế ưu đãi, giúp họ có mặt bằng kinh doanh ở
chợ đêm…
Trước tình trạng thiên
tai đã và đang đe dọa cuộc sống của người dân và gây ảnh hưởng xấu đến các công
trình hiện là di sản văn hóa, từng có ý kiến bảo vệ Hội An khỏi nước lũ với giải
pháp đắp một con đê thấp bao quanh đô thị cổ. Tuy nhiên, bởi giải pháp này có
nguy cơ ảnh hưởng xấu đến cảnh quan của thành phố di sản, chưa kể kinh phí xây
dựng quá lớn, bởi vậy mà cơ quan chức năng của thành phố và chủ nhân của những
di tích đã giải quyết vấn đề theo hướng thuận theo tự nhiên, chấp nhận chung sống
với lụt lội thay vì chỉ đắp đê ngăn không cho nước tràn vào. Ngay từ đầu mùa
mưa, cán bộ của Trung tâm Bảo tồn di sản Hội An đã phối hợp với lực lượng cộng
tác viên khảo sát từng ngôi nhà, từng ngõ ngách, đưa vào danh sách những trường
hợp cần hỗ trợ khi bão, lụt và giúp đỡ họ về kỹ thuật, cây chống, nhân lực.
Chính vì vậy mà Hội An đã trải qua không ít cơn bão lớn nhưng những ngôi nhà cổ
vẫn được an toàn, chỉ bị xô lệch đi vài hàng ngói.
Vấn đề quản lý di sản “sống”
như Hội An chịu sự chi phối của nhiều yếu tố pháp luật có liên quan như Luật di
sản, Luật đất đai, Luật cư trú, Luật xây dựng... Do đó, Hội An phải đặt ra những
quy chế trong từng lĩnh vực cụ thể để người dân tham gia, như Quy chế về quản
lý, tu bổ, sử dụng khu phố cổ; Quy chế về trật tự kinh doanh; Quy chế về biển
hiệu quảng cáo; Quy chế về tham quan, du lịch; Quy chế về hoạt động du lịch
trên sông; Quy chế về các cơ chế phối hợp quản lý di sản. Các quy chế này chi
phối cơ chế quản lý, sử dụng di tích; quy định việc buôn bán, làm du lịch trong
di tích; quy định các hạng mục sửa chữa, thời gian cho phép sửa chữa các di
tích, nhất là những di tích hạng 1, hạng 2 và cả hạng đặc biệt[7]... Để gắn kết chặt chẽ và
bền vững giữa bảo tồn, phát huy giá trị di sản với du lịch, Hội An đã quyết định
hướng đi “Phát triển du lịch Hội An bền vững trên nền tảng gắn kết văn hoá và
sinh thái” từ những thực tiễn trong quá trình bảo tồn và phát huy giá trị di sản
gắn với du lịch, như: Phát triển du lịch dựa trên cơ sở bảo tồn văn hoá và môi
trường; Phát triển sản phẩm du lịch gắn với di sản; Xây dựng sản phẩm du lịch
văn hoá gắn với văn hoá du lịch; Quy hoạch hướng tới sự phát triển bền vững;
Khoanh vùng di sản và giảm tốc quá trình đô thị hoá trong khu vực di sản; Giảm
thiểu tốc độ thương mại hoá và tăng cường thông tin để nâng cao nhìn nhận ý thức
của người dân và du khách…
Để đưa các quy chế đi vào
cuộc sống, nhiều năm qua, chính quyền Hội An đã ban hành cẩm nang chi tiết từng
nội dung, lĩnh vực, đặc biệt là chi tiết từng ngôi nhà cổ thuộc hạng nào, khu vực
nào, khi muốn sửa thì được sửa những gì, hạng mục nào; thời gian sửa chữa; thời
gian cấp phép bao lâu... để các chủ di tích căn cứ thực hiện. Trong khi đó, ở
góc độ quản lý nhà nước, quy chế quy định cụ thể các cơ chế phối hợp giữa các
cơ quan quản lý với cơ quan chuyên môn, với các cấp chính quyền, các đội quy tắc
đô thị. Trên cơ sở đó, có những biện pháp giải quyết phù hợp với lợi ích người
dân, đảm bảo nguyên tắc công bằng và bảo tồn di tích. Các quy trình phải tiến
hành trong việc cải tạo, sửa chữa di tích thoạt đầu có vẻ rất phức tạp, tốn nhiều
thời gian, công sức của cả chủ sở hữu di tích và các nhà quản lý. Nhưng trên thực
tế, đây lại là những quy trình hoàn toàn mang lại lợi ích lâu dài cho sự an
toàn của di tích và lợi ích của người dân sống trong di tích đó.
3.2.
Thánh địa Mỹ Sơn
Khu di tích Thánh địa Mỹ
Sơn nằm trong một thung lũng bao quanh bởi đồi núi, thuộc địa phận xã Duy Phú,
huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Nơi đây từng là trung tâm tôn giáo và chính trị
của Vương quốc Chămpa, Mỹ Sơn phản ánh hơn 10 thế kỷ phát triển (từ thế kỷ IV đến
thế kỷ XIV) cả về chính trị và tinh thần của con người dựa trên nền tảng Ấn Độ
giáo và các ảnh hưởng tác động trong khu vực. Kết tinh của quá trình này được
thể hiện qua các di tích kiến trúc và điêu khắc mang vẻ đẹp thẩm mỹ đặc biệt,
phản ánh sự giao thoa đa dạng giữa các nền văn hóa.
Khu di tích Mỹ Sơn đã bị
chìm trong lãng quên hàng thế kỷ, đến năm 1885 mới được phát hiện như một phế
tích. Công tác nghiên cứu khu di tích này được đẩy mạnh từ năm 1898 và bắt đầu
triển khai việc bảo tồn, trùng tu từ năm 1937. Di tích dễ bị tổn thương do phải
đối mặt với nhiều hiểm hoạ thiên nhiên và các sự kiện do cả con người lẫn tự
nhiên gây nên (như nạn trộm cắp, sự xâm lấn của cây cỏ dại, sự can thiệp của
người Pháp, rồi đến bom đạn thời chiến tranh chống Mỹ...). Đến tháng 4-1979,
khu di tích tháp cổ Chămpa ở Mỹ Sơn đã được công nhận là Di tích kiến trúc nghệ
thuật quốc gia. Đến năm 1980, Tiểu ban phục hồi di tích Chămpa ở Mỹ Sơn được
thành lập, nằm trong chương trình hợp tác văn hóa Việt Nam-Ba Lan. Sau khoảng
10 năm trùng tu, khôi phục, trung tâm kiến trúc bậc nhất của nghệ thuật Chămpa
đã phục hồi phần nào dáng vẻ ban đầu của nó. Nhận thức rõ về tầm quan trọng của
công tác quản lý, bảo tồn, phát huy giá trị của di tích, chính quyền địa phương
đã thành lập Ban Quản lý Di tích Mỹ Sơn vào tháng 12-1995 (nay là Ban Quản lý
Di tích và Du lịch Mỹ Sơn). Với những giá trị hết sức đặc sắc và tiêu biểu của
mình, tháng 12-1999, khu di tích Mỹ Sơn đã được UNESCO công nhận là di sản văn
hóa thế giới.
Qua 20 năm được UNESCO
công nhận Di sản Thế giới, Mỹ Sơn đã đạt được rất nhiều thành công từ trùng tu,
bảo tồn, phát triển du lịch đến bảo vệ môi trường, nâng cao ý thức người dân.
Thành công lớn nhất chính là việc thúc đẩy hiệu quả công tác bảo tồn di sản gắn
với hợp tác quốc tế sâu rộng. Văn phòng UNESCO tại Việt Nam là đầu mối hết sức
quan trọng để thúc đẩy hợp tác trong bảo tồn di sản. Bên cạnh đó, Mỹ Sơn đã nhận
được sự giúp đỡ của nhiều quốcgia (Italia, Hàn Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản...) và các
tổ chức quốc tế (Lerici, ILO, MAG, JICA...). Có những dự án lớn được viện trợ
nguồn kinh phí lên đến vài triệu USD, như dự án Nhà trưng bày Mỹ Sơn (Nhật Bản)
và dự án Trùng tu bảo tồn nhóm tháp G (Italia). Ngoài ra, việc trao đổi, hợp
tác, học hỏi, thăm viếng lẫn nhau thường xuyên giữa ban quản lý các di sản như
Cố đô Huế (Thừa Thiên - Huế), Phong Nha - Kẻ Bàng (Quảng Bình), di tích Cát
Tiên (Lâm Đồng), Di sản văn hóa thế giới Vatphou (Lào)... cũng đã giúp Mỹ Sơn dễ
dàng tiếp cận những nguồn thông tin, kiến thức mới trong công tác bảo tồn di sản
của khu vực và thế giới.
Thành công lớn thứ hai của
Mỹ Sơn là đột phá trong việc ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học một cách
bài bản, đúng nguyên tắc vào công tác bảo tồn và đã được thực tế chấp nhận, dù
trước đó, đây là vấn đề rất khó khăn. Sau nhiều cuộc họp tại Hà Nội và Mỹ Sơn,
một loạt các nguyên tắc trong trùng tu di tích được thống nhất vào năm 2004.
Các nguyên tắc này tuy mới chỉ được áp dụng cho nhóm tháp G, nhưng có khả năng ứng
dụng trong công tác bảo tồn đối với tất cả các di tích trong khu thánh địa Mỹ
Sơn cũng như với toàn bộ các di tích Chămpa được xây bằng gạch mà không dùng vữa
để kết nối các khớp gạch bên ngoài. Các nguyên tắc chính được thông qua nhấn mạnh
vào sự tôn trọng tính xác thực của chất liệu nguyên gốc và chỉ thực hiện tái tạo
khi thực sự cần thiết; không sử dụng tùy tiện các vật liệu mới khác với chất liệu
gốc (như thép, bê tông, vữa xi măng, nhựa đúc...) để tránh sự không tương
thích, luôn lưu ý việc sử dụng các chất liệu bền về tính phù hợp với điều kiện
đặc biệt của khí hậu nhiệt đới; phục dựng lại các hạng mục được phát hiện có vấn
đề kết cấu không chắc chắn và không bền vững thông qua phương pháp tái dựng
nhưng đảm bảo tối đa tính nguyên vẹn của hiện trạng của các di tích[8]. Các hoạt động khai quật
được tiến hành một cách thận trọng và được tư liệu hoá cẩn thận, đảm bảo tôn trọng
các tài sản và giá trị tôn giáo và chính trị của nền văn hoá Chămpa cổ. Các
nguyên tắc quốc tế trong lĩnh vực khảo cổ học cũng được tuân thủ nghiêm túc[9].
Một kết quả khác cũng hết
sức quan trọng, đó là đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ với những kỹ năng, kinh
nghiệm đã được đúc kết qua thực tế, được tiếp cận thông tin, kiến thức mới
trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản của khu vực và thế giới. Thực
tiễn đã chứng minh yếu tố xây dựng năng lực đóng vai trò thiết yếu đối với tính
bền vững trong việc trùng tu di tích Chăm, không chỉ ở Mỹ Sơn mà còn ở các tỉnh
thành khác ở miền Trung Việt Nam. Nỗ lực xây dựng, nâng cao năng lực cán bộ và
nhân viên kỹ thuật đã mang đến những thành tựu nổi bật trong lĩnh vực khai quật
khảo cổ học, gia cố và trùng tu. Những kỹ năng này không chỉ được áp dụng cho
các nhân viên kỹ thuật tại Mỹ Sơn và nhiều cơ quan ban ngành khác của tỉnh Quảng
Nam, mà còn được truyền tải tới đội ngũ công nhân xuất thân là nông dân từ các
làng lân cận Mỹ Sơn[10].
Từ thực tiễn công tác
trùng tu, tôn tạo cho thấy rằng khó khăn nhất trong việc trùng tu các di tích
kiến trúc là kỹ thuật xây tháp Chăm cho đến nay vẫn chứa đầy những bí ẩn. Việc
chưa giải mã đầy đủ được công nghệ xây dựng, vật liệu và nguyên liệu để liên kết
đã khiến hàng chục tỷ đồng đầu tư trùng tu bảo tồn phần di sản quan trọng này
qua hàng chục năm chỉ đem lại kết quả rất ít ỏi, bất chấp sự nỗ lực của Nhà nước
và các nhà tài trợ quốc tế[11]. Điều này đã khẳng định
rõ yêu cầu tôn trọng kết quả nghiên cứu khoa học trước bất kỳ một hoạt động
trùng tu nào. Phương án trùng tu là xuất phát từ tính chất bảo tồn phế tích kiến
trúc khảo cổ học, nên công việc đầu tiên là khảo cổ; căn cứ kết quả đó mới có
phương án trùng tu. Yêu cầu bảo tồn cao nhất với là giữ nguyên trạng, nếu đủ cơ
sở thì mới trùng tu tái định vị, không làm lại những gì không xác định được.
Nhưng quan trọng hơn là phải tạo một sự phân biệt để cho biết đâu là kiến trúc
cổ, đâu là phần mới trùng tu.
Hiệu quả trùng tu, tôn tạo,
khôi phục lại diện mạo di tích là điều kiện đẩy mạnh các hoạt động phát triển
du lịch tại di sản. Để đưa lợi ích của phát huy giá trị di sản về với cộng đồng,
chính quyền địa phương đã tuyên truyền, giáo dục giá trị di sản cho nhân dân, tạo
việc làm cho người dân địa phương qua các dự án (như dự án Homestay Mỹ Sơn,
Làng Du lịch cộng đồng Mỹ Sơn...). Từ năm 2003 - 2004, các cơ quan chức năng đã
phối hợp đưa nội dung giáo dục giá trị di sản Mỹ Sơn vào các trường phổ thông ở
địa phương, đầu tư nâng cấp hệ thống giao thông đến Mỹ Sơn nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho việc quản lý, bảo tồn và phát triển du lịch. Công tác quản lý bao
gồm việc chú trọng đảm bảo an ninh trật tự, giữ gìn cảnh quan môi trường ngày
xanh - sạch - đẹp... Nhờ đó, khu di tích Mỹ Sơn đã trở thành điểm du lịch nổi
tiếng. Hằng năm, lượng khách đến với
di sản ngày
càng tăng, năm 2017, khu đền tháp Mỹ Sơn đón 350
nghìn lượt khách tham quan, con số khá ấn tượng nếu so với khoảng 30 nghìn lượt
khách đến khu đền tháp trong năm 1999[12]. Kinh
phí thu được từ hoạt động du lịch đã góp phần quan trọng để trùng tu, bảo tồn
di sản, phát triển kinh tế - xã hội địa
phương.
4.
Kết luận
Di sản văn hóa là sức mạnh
nội sinh tiềm tàng, thúc đẩy sự phát triển bền vững của quốc gia, dân tộc nói
chung và các địa phương nói riêng. Bảo tồn di sản văn hóa, do vậy, không chỉ là
nghĩa vụ mà còn là quyền lợi thiết thực của mỗi người. Nắm vững quy luật, tìm
ra phương thức, hoạch định chiến lược, giải quyết những vấn đề đang nổi cộm, có
hệ thống giải pháp, biện pháp cụ thể, hiệu quả… chính là những điều kiện cần và
đủ để công tác, bảo tồn, phát huy di sản văn hóa có được bước phát triển mới
mang tầm vĩ mô.
Từ kinh nghiệm chung của
Việt Nam về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể, ở Quảng Nam có
thể nêu 6 yêu cầu quan trọng hiện nay như sau: Thứ nhất, khảo sát đúng thực trạng các di sản văn hóa, nhanh chóng
hoàn thành quy hoạch tổng thể làm cơ sở cho các dự án bảo tồn tổng thể. Thứ hai, trung ương và địa phương cần có chính sách đầu tư kinh phí để nghiên cứu,
trùng tu, tôn tạo và bảo vệ các di sản văn hóa. Thứ ba, cần có chính sách kêu gọi các nguồn đầu tư từ các nước, các
tổ chức văn hóa quốc tế. Thứ tư, đẩy
nhanh tiến trình xã hội hóa việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa, phải làm
cho cán bộ và quần chúng hiểu rõ đây là tài sản quý giá của cả dân tộc, phải có
thái độ trân trọng ý thức bảo tồn di sản. Thứ
năm, phải thức tỉnh những tiềm năng kinh tế tiềm ẩn trong di sản thông qua
kinh tế du lịch. Thứ sáu, tăng cường
công tác giáo dục pháp luật và nâng cao kiến thức về di sản một cách rộng rãi.
Cần phải nhận thức rằng
không chỉ là với từng loại hình cụ thể, ngay cả những trường hợp cụ thể của di
sản văn hóa vật chất cũng cần phương pháp tiếp cận và ứng xử khác nhau cho mục
tiêu bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Nếu phân tích rõ sẽ thấy, Hội An có đặc
điểm của một đô thị sống; còn Mỹ Sơn mang đặc điểm của một di tích phế tích của
một quốc gia cổ. Mỗi di sản có những yêu cầu riêng, vì vậy công tác trùng tu, bảo
vệ, khai thác cho phát triển phải phù hợp với đặc điểm thực tế của di sản và điều
kiện của địa phương. Với một số trường hợp, có lẽ nên chấp nhận việc phục dựng
một số hạng mục di tích nằm ngoài quy hoạch nguyên bản để có không gian văn hóa
cho việc thực hành các nghi thức tín ngưỡng và lễ hội, nếu như điều đó sẽ đem lại
lợi ích tổng thể cho cả văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể. Với một số trường
hợp khác như các khu di tích khảo cổ tồn tại dưới dạng phế tích, với những giá
trị tiềm ẩn mà chưa thể nhận diện được hết, thì nguyên tắc tổng quát là không nên có bất cứ sự can thiệp nào mà không có sự
nghiên cứu cẩn thận từ trước. Đứng trên khía cạnh mỹ quan, tình trạng phế tích
kiến trúc được bảo tồn trong điều kiện kỹ thuật ổn định, hài hòa với tự nhiên
hoang dã cũng tạo ra nét hấp dẫn cho du lịch.
Bên cạnh những kết quả đạt
được, công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa vật thể trên địa
bàn tỉnh Quảng Nam vẫn còn nhiều hạn chế, chưa tương xứng với bề dày lịch sử,
nguồn di sản của tỉnh. Nhiều loại hình di sản ở vùng miền núi, vùng dân tộc thiểu
số đang có nguy cơ bị mai một. Sự xuống cấp của một số di tích (nhất là trong
các buôn/làng) vẫn đang ở mức báo động. Tình trạng lấn chiếm, vi phạm di tích -
danh thắng chưa được khắc phục triệt để. Ở nơi này, nơi kia vẫn còn để xảy ra
tình trạng làm sai lệch giá trị vốn có của di tích, bỏ di tích gốc để xây dựng
công trình mới. Việc sưu tầm tầm các loại tài liệu, hiện vật quý hiếm chưa
tương xứng với tiềm năng về điều kiện tự nhiên, xã hội của địa phương. Nạn đào
tìm, trộm cắp cổ vật đó đây vẫn có. Điều kiện về cơ sở vật chất kỹ thuật, chất
lượng cán bộ, các cơ chế chính sách trong lĩnh vực di sản chưa đáp ứng kịp thời.
Công tác quảng bá hình ảnh di sản và gắn kết các di sản văn hóa với hoạt động
du lịch, tham quan còn hạn chế…
Để có thể đưa công tác bảo
tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể ở Quảng Nam lên tầm chiến lược,
thực hiện một cách khoa học, đạt chuẩn quốc gia và quốc tế, đặc biệt là khai
thác đầy đủ giá trị di sản văn hóa vào phát triển kinh tế - xã hội, trước hết cần
phải có những nhận thức cần thiết về xu hướng, kinh nghiệm ứng xử với di sản điển
hình ở Việt Nam. Năng lực bảo tồn và phát huy di sản của tỉnh chỉ có thể được
nâng cao không chỉ qua những trải nghiệm ở địa phương, mà còn phải qua tăng cường
giao lưu, trao đổi kinh nghiệm trong công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá
trị di sản, từ đó góp phần quảng bá tiềm năng văn hóa, thương mại và du lịch,
liên kết phát triển du lịch di sản bền vững giữa các vùng miềnq
* Viết chung với Nguyễn Thanh Tùng, Văn hóa Quảng Nam động lực phát triển kinh tế
- xã hội bền vững, Nxb Đà Nẵng, 2019.
[1].Nguyễn Ngọc
Thanh (Chủ biên), Việt Nam những vùng địa
linh nhân kiệt, Nxb Khoa học xã hội, Tập 2, Hà Nội 2014, tr.161.
[2].Hội đồng nhân
dân tỉnh Quảng Nam, khóa VIII, kỳ họp thứ 14 (2015), Nghị quyết về đầu tư tu bổ di tích Quốc gia và di tích cấp tỉnh trên địa
bàn tỉnh giai đoạn 2016 - 2020, số 161//2015/ NQ - HĐND.
3.UBND tỉnh Quảng Nam (2019), Quy chế về quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn
hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, 2019.
[6]
Nguyễn Thị
Thu Hà, Quản lý di sản văn hóa và phát
triển du lịch ở đô thị cổ Hội An, tỉnh Quảng Nam, Tlđd, tr. 67.
[9]
UNESCO, Bảo tồn Di sản Thế giới Mỹ Sơn (2003 -
2013, Tlđd, tr.24.
[11]
Trương Minh
Dục (2005), “Vấn đề bảo tồn các di sản văn hóa Chăm pa hiện nay”, Tạp chí Dân tộc học, Số 1, tr.61.