Thứ Hai, 28 tháng 9, 2020

BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY DI SẢN VĂN HÓA VẬT THỂ TỪ KINH NGHIỆM CỦA TỈNH QUẢNG NAM - Nguyễn Ngọc Thanh*

           1. Mở đầu

Quảng Nam giữa miền Trung Việt Nam, phía bắc giáp tỉnh Thừa Thiên - Huế và thành phố Đà Nẵng; phía nam giáp tỉnh Quảng NgãiKon Tum; phía tây giáp nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, phía đông là Biển Đông.

Quảng Nam là một vùng đất linh thiêng. Nơi đây là điểm hội tụ linh khí của non - nước, núi - sông, đồng bằng ven biển. Địa hình Quảng Nam nghiêng dần từ tây sang đông với nhiều dãy núi cao trên 2.000m như núi Ngọc Linh, núi Lum Heo ở phía tây, và dải đồng bằng ven biển ở phía đông… Quảng Nam có hệ thống sông ngòi phong phú với ba hệ thống sông chính: sông Thu Bồn, sông Tam Kỳ và sông Trường Giang cùng với rất nhiều hồ lớn: Phú Ninh, Khe Tân, Việt An, Phú Lộc… do đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho Quảng Nam có cơ hội giao lưu, phát triển  kinh tế - xã hội.

Nằm ở trung điểm đất nước theo trục Bắc - Nam, kết hợp với những cửa biển lớn, Quảng Nam đã từng có một thương cảng sầm uất, thu hút đông đảo thương gia từ trong và ngoài nước đến buôn bán. Đô thị cổ Hội An trở thành nơi “hội thủy, hội nhân và hội tụ văn hóa” (cả xưa và nay) của người Việt, người Hoa, người Nhật Bản và người châu Âu (Pháp, Bồ Đào Nha…) từ thế kỷ XVI. Những nét văn hóa tiêu biểu nhất của các cộng đồng dân tộc chung sống tại Hội An đã được hòa trộn một cách tinh tế, hài hòa trong những dấu tích còn lại. Hội An cũng là một trong số rất ít những đô thị cổ tại Việt Nam được bảo tồn tương đối nguyên vẹn với một tổng thể kiến trúc phong phú, đa dạng: nhà cổ, hội quán, chùa, cầu… Quảng Nam cũng là vùng đất nằm trong khu vực văn hóa Sa Huỳnh thời tiền sử. Vương quốc Chămpa của người Chăm tồn tại trong suốt 17 thế kỷ (từ thế kỷ II đến thế kỷ XIX) đã để lại cho Quảng Nam Thánh địa Mỹ Sơn với hơn 70 ngôi đền tháp mang nhiều phong cách kiến trúc điêu khắc tiêu biểu cho từng giai đoạn lịch sử của Vương quốc Chămpa[1].  Các di tích này không chỉ có giá trị về mặt văn hóa, nghệ thuật mà còn có ý nghĩa lịch sử quan trọng, thể hiện sự phát triển lâu đời của một vùng văn hóa Đàng Trong.

n hóa xã hội                            cứu, giai đoạn 2016 - 2020

Theo thống năm 2018, toàn tỉnh có 2 di sản thế giới, 64 di tích quốc gia, trong đó có 4 di tích Quốc gia gia đặc biệt, và 335 di tích cấp tỉnh… Trong thời kỳ Đổi mới, Quảng Nam đã rất quan tâm, tạo điều kiện để bảo vệ, phát huy các di sản văn hóa vật chất của địa phương. Phần lớn các di tích đã được đầu tư chống xuống cấp, phục hồi, tôn tạo ở các mức độ khác nhau theo Luật Di sản văn hóa...  Nhiều giải pháp về cơ chế, chính sách đã được ban hành bằng các văn bản quy phạm pháp luật như Nghị quyết số 161//2015/NQ-HĐND, ngày 07/07/2015 của Hội đồng nhân dân tỉnh về đầu tư tu bổ di tích Quốc gia và di tích cấp tỉnh giai đoạn 2016 - 2020[2]; Quyết định số 08/2019/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh, ngày 02/5/2019 ban hành Quy chế về quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Quảng Nam[3].

Quy chế gồm 6 Chương, 28 Điều quy định hoạt động quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh đã được xếp hạng và công trình xây dựng, địa điểm, cảnh quan thiên nhiên, khu vực thiên nhiên trong danh mục kiểm kê di tích thuộc thẩm quyền quản lý của UBND tỉnh Quảng Nam; trách nhiệm và mối quan hệ phối hợp của các cấp, các ngành, các địa phương, chủ sở hữu di tích và Nhân dân trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị các di tích trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. 

2. Các vấn đề và xu hướng chung trong bảo tồn và phát huy di sản                                                         văn hóa vật thể ở Việt Nam

2.1. Giải quyết hài hòa mâu thuẫn giữa bảo tồn và phát triển

Trong bối cảnh đô thị hóa, kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, việc bảo tồn và phát huy những giá trị di sản ngày càng trở nên cấp bách. Một khi không nhận thức được giá trị di sản và pháp luật về di sản, người ta có xu hướng đặt phát triển thành ưu tiên hàng đầu, dẫn đến các hiện tượng tiêu cực như bỏ mặc, xâm lấn hoặc phá hoại di sản. Mặc dù vậy, có một sự thật hiển nhiên là kinh tế đi lên lại tạo nguồn lực để tu bổ di sản. Trong quá trình phát triển du lịch, các nguồn thu thông qua dịch vụ du lịch như nhà hàng, khách sạn, vận tải hành khách, buôn bán hàng thủ công mỹ nghệ, vui chơi giải trí… tăng lên hàng năm đã trở thành động lực quan trọng để đầu tư cải thiện tình trạng di sản. Sự phát triển du lịch tại các điểm di sản văn hóa và thiên nhiên góp phần thúc đẩy các ngành giao thông, hàng không hoạt động mạnh mẽ hơn. Mặt khác, khai thác khía cạnh giáo dục của di sản sẽ giúp phát triển nhân cách con người và đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng, từ đó phục vụ trực tiếp cho phát triển.

Khi nói đến phát triển di sản tức là không chỉ nói đến phát huy giá trị di sản hay phương thức khai thác di sản, mà ở một cấp độ cao hơn chính là sự phát triển luôn được đặt trong một bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, không phải lúc nào người ta cũng giải quyết được một cách hài hòa giữa bảo tồn di sản văn hóa vật chất với phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là trong bối cảnh đô thị hóa, công nghiệp hóa và toàn cầu hóa. Thực tiễn đã chứng minh các di sản văn hóa vật chất bị đe dọa nhiều nhất khi nằm trong một khu dân cư đô thị đang phát triển với sự bùng nổ của các dự án xây dựng hạ tầng, giao thông...

Việt Nam là một quốc gia điển hình ở Đông Nam Á, nơi các cộng đồng địa phương sống trong phần lớn các khu di sản thế giới, di tích cấp Quốc gia và cấp Quốc gia đặc biệt… Nhưng do nhu cầu cuộc sống bức thiết, nhiều ngôi nhà xuống cấp, cũ nát; trong mỗi gia đình các thành viên tăng thêm, cần có thêm chỗ ở; chưa kể nhiều gia đình làm nông nghiệp còn phải có diện tích chăn nuôi, phơi phóng... Cũng chính vì lý do này mà mấy năm trước, người dân làng Đường Lâm (Hà Nội) và phố cổ Đồng Văn (Hà Giang) từng viết đơn xin “trả” danh hiệu Di tích kiến trúc, nghệ thuật Quốc gia.

Với những trường hợp này hay với bất cứ một di sản vật thể nào khác, phương pháp tiếp cận cần thiết nhất là phải gắn bảo tồn với phát triển và ngược lại. Di sản phải là một phần của cuộc sống đương đại. Phải chuyển phương pháp tiếp cận từ thụ động sang chủ động, từ gìn giữ, duy trì, bảo tồn và trùng tu công trình di sản sang tôn tạo, cải tạo và tái phát triển. Cách tiếp cận này nhằm nâng cấp và thay đổi tình trạng của di sản phù hợp với nhu cầu phát triển chung nhằm đưa những công trình lịch sử trở lại với đời sống. Ngoài ra, nếu việc bảo tồn di sản không được coi trọng ngang bằng hoặc hơn việc khai thác di sản thì sẽ dẫn đến tình trạng phá hoại di sản, làm cho di sản bị xuống cấp, mai một nhanh chóng. Có trường hợp, di sản văn hóa, thiên nhiên quốc gia bị xâm lấn, tàn phá (như trường hợp xây cầu trên núi ở di sản Tràng An năm 2018; lăng mộ bị san phẳng để làm bãi đỗ xe ở Huế năm 2017; xây nhà văn hóa xâm hại di tích Yên Tử năm 2015…) do các địa phương chỉ coi trọng sự tăng trưởng kinh tế chứ ít quan tâm đến việc giữ gìn cảnh quan môi trường và các di sản văn hóa.

Để giải quyết các mâu thuẫn này, điều quan trọng nhất là phải có sự quy hoạch khoa học, khách quan và công tác quản lý chặt chẽ. Việc lập các đề án trùng tu di sản, cũng như các dự án phát triển hạ tầng chỉ có thể thực hiện được yêu cầu bảo tồn và phát huy giá trị di sản khi có sự tham vấn của các cơ quan, các nhà khoa học thuộc cả hai lĩnh vực: di sản và phát triển. Việc đẩy mạnh nghiên cứu, thực thi pháp luật và chính sách quốc gia, quốc tế cũng là một công cụ hữu ích để bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội mà vẫn bảo tồn và phát huy được giá trị di sản. Khi triển khai các dự án phát triển trong khu vực có di tích lịch sử - văn hóa hoặc biết dưới lòng đất có di tích khảo cổ học, chủ dự án, ngay từ đầu phải phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước về di sản văn hóa tổ chức việc bảo tồn di tích hoặc triển khai các hoạt động khai quật khảo cổ học trước khi triển khai dự án.

2.2. Nâng cao trách nhiệm và hiệu quả phối hợp trong công tác quản lý di sản

Trong thời gian qua, các chính sách của Đảng, Nhà nước đã cho thấy tác dụng tích cực trong bảo tồn và phát huy di sản văn hóa, ngăn chặn tình trạng xuống cấp của di tích, sự mất mát của các hiện vật có giá trị khoa học. Bằng chính sách xếp hạng của Nhà nước, nhiều di tích có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa và khoa học dưới sự bảo vệ của pháp luật. Chương trình mục tiêu quốc gia tu bổ tôn tạo di tích ngày càng có hiệu quả, nhiều di tích lịch sử đã được cứu thoát khỏi tình trạng xuống cấp nghiêm trọng[4]. Cùng với đó là việc từng bước hoàn chỉnh hệ thống luật về di sản và các quyết định có liên quan; việc tổ chức sắp xếp lại bộ máy quản lý nhà nước cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao; huy động được sự tham gia của toàn xã hội đối với hoạt động giữ gìn, phát huy giá trị di sản văn hóa...

Bài học ở nhiều nơi cho thấy ngay khi các cơ quan chức năng nới lỏng việc quản lý di sản là các biểu hiện xâm phạm sẽ lại nổi lên, dẫn đến nhiều di tích tiếp tục bị xâm phạm, lấn chiếm, cổ vật bị đánh cắp, làm hư hại, thất thoát khá nặng nề. Việc thiếu một định hướng chuẩn mực về quản lý văn hóa dẫn đến không ít hiện tượng phản cảm trong bảo tồn và phát huy giá trị của các di tích lịch sử - văn hóa như việc cung tiến đồ thờ cúng, bày đặt linh vật, trang trí tùy tiện. Những sai phạm này làm suy kiệt, làm nghèo đi giá trị di tích, đến phát triển bền vững trong hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Mặt khác, Việt Nam hiện đang tiến hành quản lý văn hóa trong cơ chế kinh tế thị trường. Sự chồng chéo về cơ chế quản lý và phân công, phân cấp nhiệm vụ đã tạo nên những mâu thuẫn, gây bất lợi cho di sản cả trong công tác bảo tồn di tích và phát triển du lịch. Một trong những chủ đề được quan tâm gần đây là sự hạn chế về thẩm quyền (cụ thể là thiếu chức năng của các cơ quan quản lý nhà nước) của các ban quản lý di sản tại địa phương, ngoài ra còn là cơ chế quản lý các di sản (đặc biệt là di sản thế giới) chưa thống nhất. Để kết nối hoạt động của các cơ quan công quyền với các cơ quan quản lý di sản, cần thiết phải xác định trách nhiệm quản lý thuộc về lãnh đạo các cấp địa phương, thay đổi cơ chế quản lý nhà nước để tăng cường kết nối và trao truyền cho các ban quản lý di sản.

2.3. Yếu tố con người phải được đưa lên hàng đầu trong công tác bảo vệ di sản

Không thể bảo tồn và phát huy di sản một cách hiệu quả nếu những người có quyền hạn không nhận thức đúng về tầm quan trọng hay giá trị của di sản. Trong những thập niên trước năm 1990, có những định kiến tồn tại trong bộ máy quản lý hành chính về việc tại sao lại phải bảo tồn di sản của “bọn vua chúa bán nước”. Để Cố đô Huế được công nhận là di sản là cả một quá trình vận động lâu dài nhằm thay đổi nhận thức rằng đây là di sản văn hóa của dân tộc chứ không phải chỉ là di sản của một triều đình phong kiến. Tương tự như vậy, có những di tích gắn với chế độ ngụy quyền một thời bị bỏ mặc, song cuối cùng được thừa nhận như những di sản đóng vai trò là chứng tích tội ác. Việc phá bỏ các rào cản về quan điểm chính trị về giá trị di sản ở trung ương lẫn địa phương có thể đem đến sự thay đổi toàn diện về tình trạng của di sản đó.

Vấn đề thứ hai là trình độ kỹ thuật, năng lực chuyên môn của những người thực hiện công tác bảo vệ, gìn giữ di sản. Công tác di sản là cả một loại khoa học tổng hợp giữa các lĩnh vực tự nhiên và xã hội - nhân văn, không đơn giản chỉ là những hành động có thể quy về một trật tự thống nhất mà mọi cá nhân qua một số lớp đào tạo nghiệp vụ đều thực hiện được. Trong bối cảnh hiện nay, đội ngũ cán bộ chuyên môn ở một số cơ quan quản lý di sản còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. Việc học tập chuyên môn, ngoại ngữ của một bộ phận cán bộ, nhân viên thiếu bài bản, chỉ nhằm phục vụ những lợi ích trước mắt, không mang tính chuyên sâu, tính thực tế để đáp ứng những đòi hỏi chuyên môn cao của ngành. Bởi vậy mà ở không ít nơi, trong khi tiến hành bảo tồn, trùng tu, người ta đã không cẩn thận, thiếu trách nhiệm, thiếu năng lực chuyên môn, làm biến dạng, mất giá trị di tích.

Vấn đề trên đặt ra mục tiêu lớn cho xây dựng và phát triển nguồn nhân lực cho bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh là xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý và chuyên môn có tính chuyên nghiệp cao, một đội ngũ thợ lành nghề được trang bị và nắm vững những quy định của Luật Di sản văn hóa và những văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, cũng như những quy định của Công ước và Hiến chương Liên hợp quốc về Di sản thế giới; được trang bị các phương pháp khoa học về bảo tồn truyền thống và hiện đại; có năng lực phối hợp và liên kết với các chuyên gia trên nhiều lĩnh vực khác nhau, cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội nhân văn để quản lý và triển khai trên thực tế các hoạt động quy hoạch, thiết kế, bảo quản, tu bổ, tôn tạo, phục hồi di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh.

Đối với các khu di tích và danh lam thắng cảnh hiện có dân cư sinh sống, thì phải coi cộng đồng dân cư là đối tượng cần được đào tạo, là nguồn nhân lực cho phát triển bền vững thông qua việc hướng dẫn cho họ nhận biết được giá trị của di sản; đào tạo người có tay nghề, có kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn tham gia vào công tác bảo tồn, hướng dẫn viên du lịch… góp phần cải thiện và nâng cao đời sống cộng đồng để cộng đồng tham gia có trách nhiệm vào công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản.

Bên cạnh đó, cần phải hợp tác chặt chẽ với các trường đại học, viện nghiên cứu, các tổ chức của Hàn Quốc, Mỹ, Nhật Bản và Ba Lan để học hỏi và tiếp nhận kỹ thuật sản xuất vật liệu, trùng tu di tích nhằm đảm bảo công tác bảo tồn có quy trình chuẩn, qua đó nâng cao giá trị của di sản.

2.4. Xã hội hóa rộng rãi việc bảo tồn và phát huy di sản

Do điều kiện khách quan của đất nước, do các di sản văn hóa vật thể trên cả nước quá lớn, nên kinh phí hằng năm của Nhà nước dành cho di sản ở các địa phương vẫn còn ít so với nhu cầu thực tế, dẫn đến tình trạng hàng nghìn di tích trên cả nước chưa được tu bổ. Một bộ phận lớn các di tích lịch sử - văn hóa được đầu tư mới chỉ đáp ứng được mục tiêu gia cố, chống xuống cấp cục bộ chứ chưa đủ khả năng thực hiện các dự án tổng thể nhằm tạo điều kiện cần và đủ để di tích tồn tại lâu dài.

            Có nhiều di sản vật thể vẫn được người dân tự giác chú ý bảo vệ, đóng góp cho tôn tạo và phát triển. Đối với những trường hợp này, việc phát huy quyền làm chủ của người dân địa phương song song với sự quản lý của Nhà nước là hết sức quan trọng. Bởi vì con người là trung tâm của quá trình phát triển, di sản văn hóa phải được gắn với con người và cộng đồng cư dân địa phương (với tư cách là chủ thể sáng tạo văn hóa và chủ sở hữu tài sản văn hóa) thì mới có giá trị thực tiễn và lành mạnh. Sự tùy tiện, không khoa học, làm hộ, làm thay, thiếu sự tham gia của cộng đồng là một bài học đắt giá cho mọi trường hợp, nhất là với công tác bảo tồn và phát huy các di sản trong phát triển. Sự đồng thuận trong từng hành động của người dân ngày càng được xem là yêu cầu hàng đầu khi khai thác di sản. Tuy nhiên, không phải lúc nào việc thực hiện ý kiến của các “mạnh thường quân” cũng đem lại hệ quả tốt. Xã hội hóa mà không gắn với quản lý nhà nước chặt chẽ thì sẽ dẫn đến tình trạng lộn xộn, nhập nhằng, thậm chí phô trương phản cảm.

Đối với các di sản vật thể không còn “sống” trong cộng đồng, chẳng hạn như những phế tích, di chỉ, những địa điểm khảo cổ dưới nước..., việc huy động các nguồn lực xã hội hóa sẽ yêu cầu ở một cấp độ cao hơn. Xu hướng đa dạng hóa các nguồn vốn đã cứu nguy cho không ít di sản bị lãng quên, bao gồm cả các nguồn vốn có yếu tố quốc tế. Để làm được điều này, nhất thiết phải nhắc đến vai trò tiên phong của cơ quan quản lý di sản ở địa phương trong việc kêu gọi các nhà đầu tư, cũng như việc tạo điều kiện cho các tổ chức bảo tồn và phát triển được tiếp cận di sản, bao gồm cả những di sản nằm ở khu vực nhạy cảm.

Công tác xã hội hóa không chỉ đơn giản là khuyến khích đa dạng hóa ngân quỹ dành cho di sản, mà quan trọng hơn cả, đó là khuyến khích sự tham gia của cộng đồng. Bất cập lớn nhất hiện nay cho việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa vật thể là nhận thức và sự tham gia của cộng đồng chưa thực sự đồng đều, vững chắc và có lợi cho sự nghiệp bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Tại các địa phương có di sản văn hóa và thiên nhiên, về mặt hình thức, phần lớn mọi người đều vui mừng khi địa phương mình có di sản văn hóa, ý thức trách nhiệm của cộng đồng với việc bảo vệ di sản được nâng lên. Nhưng trên thực tế, những nhận thức này chưa tương xứng với nhu cầu bảo vệ di sản. Nhiều người quan tâm đến việc được hưởng lợi gì từ di sản hơn là trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với việc thực thi luật bảo vệ di sản. Việc bảo vệ di sản do đó chủ yếu vẫn là những biện pháp hành chính của các cơ quan quản lý.

Có một vấn đề đang đặt ra là Nhà nước phải sớm công nhận quyền sở hữu/quyền sử dụng của cộng đồng hoặc người trụ trì các đình, chùa, miếu hoặc các công trình văn hóa công cộng khác, để từ đó làm cơ sở pháp lý cho việc quản lý các công trình này, không để tình trạng tranh chấp đang xảy ra trong nội bộ cộng đồng có chiều hướng gia tăng đối với diện tích đất thuộc các công trình văn hóa.

3. Kinh nghiệm trong bảo tồn và phát huy di sản văn hóa vật thể nhìn từ trường hợp hai Di sản thế giới ở Quảng Nam

3.1. Đô thị cổ Hội An

Câu chuyện về bảo tồn, phát huy giá trị nhà cổ ở các làng cổ là một chủ đề “nóng” đã nhiều lần thu hút sự quan tâm của dư luận. Đây là một loại hình đặc biệt của di sản văn hóa vật thể, khi di tích gắn chặt với đời sống dân sinh. Việc giải quyết kịp thời và hài hòa giữa việc bảo tồn và đáp ứng nhu cầu cuộc sống của người dân là yêu cầu hết sức bức thiết, là trọng tâm của trục vấn đề xoay quanh di tích làng cổ. Vụ việc dân làng Đường Lâm, thị xã Sơn Tây (Hà Nội) và phố cổ Đồng Văn (Hà Giang) gần đây xin trả lại danh hiệu di sản là một ví dụ điển hình cho những rắc rối liên quan đến mâu thuẫn giữa mong muốn xây dựng, sửa chữa nhà ở của người dân với những quy định về bảo tồn di sản. Trước Đường Lâm, Hội An (Quảng Nam) cũng phải đối mặt với thách thức tương tự, song từ thực tế qua nhiều năm qua ở đây đã chứng minh rằng hoàn toàn có thể giải quyết được vấn đề này một cách hiệu quả. Nguyên tắc bảo tồn tối đa tính chân xác và nguyên vẹn của các di tích văn hóa đã được tuân thủ một cách chặt chẽ hết mức có thể ở khu di tích nổi tiếng nay.

Đô thị - thương cảng Hội An là kết quả của hơn 2.000 năm lịch sử khai phá, điểm gặp gỡ giao lưu giữa các nền văn hóa Chămpa, Việt, Hoa, Nhật, Ấn Độ, Đông Nam Á và phương Tây… Bên cạnh giá trị văn hóa phi vật thể độc đáo, đây còn là nơi tập trung mật độ di tích dày đặc với hơn 1.360 di tích các loại, chủ yếu là di tích kiến trúc nghệ thuật. Được công nhận Di tích lịch sử văn hóa quốc gia năm 1985, nhưng tới đầu những năm 1990, Hội An mới chỉ có những khu phố cổ xập xệ, gần 1.000 ngôi nhà cổ và hơn 200 đình, chùa, miếu mạo có tuổi thọ hàng trăm năm đang ở trong tình cảnh xuống cấp, có thể sập bất cứ lúc nào. Trong những ngôi nhà cổ, tình trạng phổ biến là các gia đình 4 - 5 thế hệ sống chen chúc, chật chội với điều kiện sinh hoạt rất khó khăn. Chưa kể là vào mùa mưa hàng năm, ngay sau khi bão dứt, cư dân phố cổ cùng quần thể kiến trúc nhà cổ lại đối mặt với lũ lụt do nước mưa từ thượng nguồn đổ về, nước biển dâng cao và gần đây là sự xả lũ đồng loạt của các thủy điện.

Đứng trước khó khăn kể trên, ngay Hội An được công nhận là di sản, chính quyền thành phố Hội An (trước đây là thị xã) đã xây dựng “Quy chế bảo tồn di tích Khu phố cổ Hội An” và tổ chức Hội thảo khoa học quốc gia về Hội An vào tháng 7-1985. Tiếp theo là sự ra đời của Ban Quản lý di tích và Dịch vụ du lịch Hội An vào tháng 2-1986. Hệ thống quản lý di sản ở phố cổ Hội An được xem là một trong những hệ thống hoạt động có hiệu quả nhất ở Việt Nam hiện nay, bao gồm những quy trình được xác định rõ ràng, phân công công việc và trách nhiệm cụ thể cho từng cá nhân, đơn vị trong việc quản lý và bảo tồn từng di tích cụ thể. Mỗi đơn vị có nhiệm vụ và trách nhiệm khác nhau như ban hành chính sách và thực hiện chính sách. Nền tảng quản lý nhà nước chi tiết, đồng bộ và được điều chỉnh gần với thực tiễn của địa phương là cơ sở hỗ trợ có hiệu quả cho hoạt động khai thác di sản văn hóa gắn với phát triển du lịch ở địa phương nhiều năm qua. Nếu không nhờ có hệ thống quản lý nhà nước khá đồng bộ này, Hội An khó có thể trở thành một điểm đến du lịch văn hóa đạt tầm quốc tế như vị trí hiện nay[5].

Ở Hội An, tùy thuộc vào từng loại di tích và hiện trạng của chúng mà các di tích cũng đòi hỏi các biện pháp can thiệp bảo tồn khác nhau. Các di tích ở Hội An được phân thành 5 loại dựa theo giá trị văn hóa và mức độ nguyên trạng của chúng. Toàn bộ khu phố cổ Hội An được chia thành hai khu vực: Bất kỳ một sự thay đổi, di chuyển hoặc cải tạo nào tiến hành trong khu vực 1 đều bị cấm và khi các di tích này được sử dụng, phục hồi hoặc sửa chữa cần phải tuyệt đối đảm bảo tính chân xác của di tích trên bốn phương diện: kỹ thuật, thiết kế, nguyên liệu và cấu trúc. Ở khu vực 2, mỗi sửa chữa, cải tạo, phục hồi và cả việc lên kế hoạch phải được kiểm soát nhằm đảm bảo hoặc tăng giá trị và vẻ đẹp của tổng thể khu di sản[6]. Đối với những công trình kiến trúc cổ thuộc hạng đặc biệt và hạng 1 như Chùa Cầu, Nhà cổ số 80 trên đường Trần Phú, Nhà cổ Tấn Ký, nhà cổ Phùng Hưng số 4 đường Nguyễn Thị Minh Khai, mọi sự cải tạo hay phục hồi đều chỉ được tiến hành khi thực sự cần thiết và khi tiến hành đòi hỏi phải đảm bảo tính chân xác của từng chi tiết, phần và cả tổng thể cấu trúc di tích.

Thời gian trước đây, nhiều gia đình ở Hội An do áp lực cuộc sống đã bất chấp lệnh cấm, tự ý lén lút phá bỏ nhà cổ và xây mới, khiến chính quyền buộc phải ra lệnh cưỡng chế trong sự oán trách của người dân. Sau khi nghiên cứu tình hình, quán triệt tư tưởng, những người có trách nhiệm đã xác định biến Hội An là địa phương đi đầu trong việc thúc đẩy phát triển bền vững hài hòa lợi ích giữa con người với việc giữ gìn và phát huy di sản, ưu tiên số một là phải đảm bảo lợi ích cho người dân, để họ có thể hưởng lợi từ di sản. Với khoảng 90% ngôi nhà thuộc sở hữu tư nhân, Hội An có thể coi là một di sản tư nhân, do nhiều cá nhân, hộ gia đình, tổ chức làm chủ. Nhận thức được sự thay đổi sở hữu là quy luật tất yếu của quá trình phát triển, chính quyền đã tạo điều kiện cho những người chủ mới (qua chuyển nhượng, mua bán) trở thành những người chủ thực sự, gắn bó với Hội An, bằng cách cho họ được thu lợi một phần (trực tiếp hoặc gián tiếp) từ tiền bán vé và các hoạt động kinh doanh như nhà hàng, quán cà phê...; đồng thời hỗ trợ kinh phí trùng tu nhà cửa ưu tiên theo nguyên gốc. Chính quyền ban hành chính sách về mức hỗ trợ kinh phí trùng tu từ 30 - 75%, thậm chí 100%  tùy theo mức độ hư hại của di tích và tùy theo vị trí của ngôi nhà. Kinh phí hỗ trợ trùng tu và giãn dân lấy phần lớn từ việc bán vé tham quan, có sự hỗ trợ một phần của ngân sách Trung ương và địa phương.

Ngoài ra, việc khuyến khích người dân kinh doanh các mặt hàng phục vụ du lịch một cách bài bản và có chọn lọc đã giúp người dân không chỉ đổi đời mà còn thay đổi nhận thức. Một khi thấy được giá trị di sản do ông bà, tổ tiên để lại, người dân phố cổ không chỉ tự hào mà còn từng bước tìm cách khai thác giá trị di sản một cách tích cực hơn, đồng thời ra sức bảo vệ, giữ gìn di sản. Để tạo thu nhập cho những hộ dân sống trong ngõ, hẻm - nơi người dân không có nhiều nguồn thu từ du lịch, chính quyền Hội An đã đặt những đối tượng này ở mức ưu tiên cao trong hoạt động trùng tu di tích, đồng thời có những cơ chế ưu đãi, giúp họ có mặt bằng kinh doanh ở chợ đêm…

Trước tình trạng thiên tai đã và đang đe dọa cuộc sống của người dân và gây ảnh hưởng xấu đến các công trình hiện là di sản văn hóa, từng có ý kiến bảo vệ Hội An khỏi nước lũ với giải pháp đắp một con đê thấp bao quanh đô thị cổ. Tuy nhiên, bởi giải pháp này có nguy cơ ảnh hưởng xấu đến cảnh quan của thành phố di sản, chưa kể kinh phí xây dựng quá lớn, bởi vậy mà cơ quan chức năng của thành phố và chủ nhân của những di tích đã giải quyết vấn đề theo hướng thuận theo tự nhiên, chấp nhận chung sống với lụt lội thay vì chỉ đắp đê ngăn không cho nước tràn vào. Ngay từ đầu mùa mưa, cán bộ của Trung tâm Bảo tồn di sản Hội An đã phối hợp với lực lượng cộng tác viên khảo sát từng ngôi nhà, từng ngõ ngách, đưa vào danh sách những trường hợp cần hỗ trợ khi bão, lụt và giúp đỡ họ về kỹ thuật, cây chống, nhân lực. Chính vì vậy mà Hội An đã trải qua không ít cơn bão lớn nhưng những ngôi nhà cổ vẫn được an toàn, chỉ bị xô lệch đi vài hàng ngói.

Vấn đề quản lý di sản “sống” như Hội An chịu sự chi phối của nhiều yếu tố pháp luật có liên quan như Luật di sản, Luật đất đai, Luật cư trú, Luật xây dựng... Do đó, Hội An phải đặt ra những quy chế trong từng lĩnh vực cụ thể để người dân tham gia, như Quy chế về quản lý, tu bổ, sử dụng khu phố cổ; Quy chế về trật tự kinh doanh; Quy chế về biển hiệu quảng cáo; Quy chế về tham quan, du lịch; Quy chế về hoạt động du lịch trên sông; Quy chế về các cơ chế phối hợp quản lý di sản. Các quy chế này chi phối cơ chế quản lý, sử dụng di tích; quy định việc buôn bán, làm du lịch trong di tích; quy định các hạng mục sửa chữa, thời gian cho phép sửa chữa các di tích, nhất là những di tích hạng 1, hạng 2 và cả hạng đặc biệt[7]... Để gắn kết chặt chẽ và bền vững giữa bảo tồn, phát huy giá trị di sản với du lịch, Hội An đã quyết định hướng đi “Phát triển du lịch Hội An bền vững trên nền tảng gắn kết văn hoá và sinh thái” từ những thực tiễn trong quá trình bảo tồn và phát huy giá trị di sản gắn với du lịch, như: Phát triển du lịch dựa trên cơ sở bảo tồn văn hoá và môi trường; Phát triển sản phẩm du lịch gắn với di sản; Xây dựng sản phẩm du lịch văn hoá gắn với văn hoá du lịch; Quy hoạch hướng tới sự phát triển bền vững; Khoanh vùng di sản và giảm tốc quá trình đô thị hoá trong khu vực di sản; Giảm thiểu tốc độ thương mại hoá và tăng cường thông tin để nâng cao nhìn nhận ý thức của người dân và du khách…

Để đưa các quy chế đi vào cuộc sống, nhiều năm qua, chính quyền Hội An đã ban hành cẩm nang chi tiết từng nội dung, lĩnh vực, đặc biệt là chi tiết từng ngôi nhà cổ thuộc hạng nào, khu vực nào, khi muốn sửa thì được sửa những gì, hạng mục nào; thời gian sửa chữa; thời gian cấp phép bao lâu... để các chủ di tích căn cứ thực hiện. Trong khi đó, ở góc độ quản lý nhà nước, quy chế quy định cụ thể các cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý với cơ quan chuyên môn, với các cấp chính quyền, các đội quy tắc đô thị. Trên cơ sở đó, có những biện pháp giải quyết phù hợp với lợi ích người dân, đảm bảo nguyên tắc công bằng và bảo tồn di tích. Các quy trình phải tiến hành trong việc cải tạo, sửa chữa di tích thoạt đầu có vẻ rất phức tạp, tốn nhiều thời gian, công sức của cả chủ sở hữu di tích và các nhà quản lý. Nhưng trên thực tế, đây lại là những quy trình hoàn toàn mang lại lợi ích lâu dài cho sự an toàn của di tích và lợi ích của người dân sống trong di tích đó.

3.2. Thánh địa Mỹ Sơn

Khu di tích Thánh địa Mỹ Sơn nằm trong một thung lũng bao quanh bởi đồi núi, thuộc địa phận xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Nơi đây từng là trung tâm tôn giáo và chính trị của Vương quốc Chămpa, Mỹ Sơn phản ánh hơn 10 thế kỷ phát triển (từ thế kỷ IV đến thế kỷ XIV) cả về chính trị và tinh thần của con người dựa trên nền tảng Ấn Độ giáo và các ảnh hưởng tác động trong khu vực. Kết tinh của quá trình này được thể hiện qua các di tích kiến trúc và điêu khắc mang vẻ đẹp thẩm mỹ đặc biệt, phản ánh sự giao thoa đa dạng giữa các nền văn hóa.

Khu di tích Mỹ Sơn đã bị chìm trong lãng quên hàng thế kỷ, đến năm 1885 mới được phát hiện như một phế tích. Công tác nghiên cứu khu di tích này được đẩy mạnh từ năm 1898 và bắt đầu triển khai việc bảo tồn, trùng tu từ năm 1937. Di tích dễ bị tổn thương do phải đối mặt với nhiều hiểm hoạ thiên nhiên và các sự kiện do cả con người lẫn tự nhiên gây nên (như nạn trộm cắp, sự xâm lấn của cây cỏ dại, sự can thiệp của người Pháp, rồi đến bom đạn thời chiến tranh chống Mỹ...). Đến tháng 4-1979, khu di tích tháp cổ Chămpa ở Mỹ Sơn đã được công nhận là Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia. Đến năm 1980, Tiểu ban phục hồi di tích Chămpa ở Mỹ Sơn được thành lập, nằm trong chương trình hợp tác văn hóa Việt Nam-Ba Lan. Sau khoảng 10 năm trùng tu, khôi phục, trung tâm kiến trúc bậc nhất của nghệ thuật Chămpa đã phục hồi phần nào dáng vẻ ban đầu của nó. Nhận thức rõ về tầm quan trọng của công tác quản lý, bảo tồn, phát huy giá trị của di tích, chính quyền địa phương đã thành lập Ban Quản lý Di tích Mỹ Sơn vào tháng 12-1995 (nay là Ban Quản lý Di tích và Du lịch Mỹ Sơn). Với những giá trị hết sức đặc sắc và tiêu biểu của mình, tháng 12-1999, khu di tích Mỹ Sơn đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới.

Qua 20 năm được UNESCO công nhận Di sản Thế giới, Mỹ Sơn đã đạt được rất nhiều thành công từ trùng tu, bảo tồn, phát triển du lịch đến bảo vệ môi trường, nâng cao ý thức người dân. Thành công lớn nhất chính là việc thúc đẩy hiệu quả công tác bảo tồn di sản gắn với hợp tác quốc tế sâu rộng. Văn phòng UNESCO tại Việt Nam là đầu mối hết sức quan trọng để thúc đẩy hợp tác trong bảo tồn di sản. Bên cạnh đó, Mỹ Sơn đã nhận được sự giúp đỡ của nhiều quốcgia (Italia, Hàn Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản...) và các tổ chức quốc tế (Lerici, ILO, MAG, JICA...). Có những dự án lớn được viện trợ nguồn kinh phí lên đến vài triệu USD, như dự án Nhà trưng bày Mỹ Sơn (Nhật Bản) và dự án Trùng tu bảo tồn nhóm tháp G (Italia). Ngoài ra, việc trao đổi, hợp tác, học hỏi, thăm viếng lẫn nhau thường xuyên giữa ban quản lý các di sản như Cố đô Huế (Thừa Thiên - Huế), Phong Nha - Kẻ Bàng (Quảng Bình), di tích Cát Tiên (Lâm Đồng), Di sản văn hóa thế giới Vatphou (Lào)... cũng đã giúp Mỹ Sơn dễ dàng tiếp cận những nguồn thông tin, kiến thức mới trong công tác bảo tồn di sản của khu vực và thế giới.

Thành công lớn thứ hai của Mỹ Sơn là đột phá trong việc ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học một cách bài bản, đúng nguyên tắc vào công tác bảo tồn và đã được thực tế chấp nhận, dù trước đó, đây là vấn đề rất khó khăn. Sau nhiều cuộc họp tại Hà Nội và Mỹ Sơn, một loạt các nguyên tắc trong trùng tu di tích được thống nhất vào năm 2004. Các nguyên tắc này tuy mới chỉ được áp dụng cho nhóm tháp G, nhưng có khả năng ứng dụng trong công tác bảo tồn đối với tất cả các di tích trong khu thánh địa Mỹ Sơn cũng như với toàn bộ các di tích Chămpa được xây bằng gạch mà không dùng vữa để kết nối các khớp gạch bên ngoài. Các nguyên tắc chính được thông qua nhấn mạnh vào sự tôn trọng tính xác thực của chất liệu nguyên gốc và chỉ thực hiện tái tạo khi thực sự cần thiết; không sử dụng tùy tiện các vật liệu mới khác với chất liệu gốc (như thép, bê tông, vữa xi măng, nhựa đúc...) để tránh sự không tương thích, luôn lưu ý việc sử dụng các chất liệu bền về tính phù hợp với điều kiện đặc biệt của khí hậu nhiệt đới; phục dựng lại các hạng mục được phát hiện có vấn đề kết cấu không chắc chắn và không bền vững thông qua phương pháp tái dựng nhưng đảm bảo tối đa tính nguyên vẹn của hiện trạng của các di tích[8]. Các hoạt động khai quật được tiến hành một cách thận trọng và được tư liệu hoá cẩn thận, đảm bảo tôn trọng các tài sản và giá trị tôn giáo và chính trị của nền văn hoá Chămpa cổ. Các nguyên tắc quốc tế trong lĩnh vực khảo cổ học cũng được tuân thủ nghiêm túc[9].

Một kết quả khác cũng hết sức quan trọng, đó là đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ với những kỹ năng, kinh nghiệm đã được đúc kết qua thực tế, được tiếp cận thông tin, kiến thức mới trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản của khu vực và thế giới. Thực tiễn đã chứng minh yếu tố xây dựng năng lực đóng vai trò thiết yếu đối với tính bền vững trong việc trùng tu di tích Chăm, không chỉ ở Mỹ Sơn mà còn ở các tỉnh thành khác ở miền Trung Việt Nam. Nỗ lực xây dựng, nâng cao năng lực cán bộ và nhân viên kỹ thuật đã mang đến những thành tựu nổi bật trong lĩnh vực khai quật khảo cổ học, gia cố và trùng tu. Những kỹ năng này không chỉ được áp dụng cho các nhân viên kỹ thuật tại Mỹ Sơn và nhiều cơ quan ban ngành khác của tỉnh Quảng Nam, mà còn được truyền tải tới đội ngũ công nhân xuất thân là nông dân từ các làng lân cận Mỹ Sơn[10].

Từ thực tiễn công tác trùng tu, tôn tạo cho thấy rằng khó khăn nhất trong việc trùng tu các di tích kiến trúc là kỹ thuật xây tháp Chăm cho đến nay vẫn chứa đầy những bí ẩn. Việc chưa giải mã đầy đủ được công nghệ xây dựng, vật liệu và nguyên liệu để liên kết đã khiến hàng chục tỷ đồng đầu tư trùng tu bảo tồn phần di sản quan trọng này qua hàng chục năm chỉ đem lại kết quả rất ít ỏi, bất chấp sự nỗ lực của Nhà nước và các nhà tài trợ quốc tế[11]. Điều này đã khẳng định rõ yêu cầu tôn trọng kết quả nghiên cứu khoa học trước bất kỳ một hoạt động trùng tu nào. Phương án trùng tu là xuất phát từ tính chất bảo tồn phế tích kiến trúc khảo cổ học, nên công việc đầu tiên là khảo cổ; căn cứ kết quả đó mới có phương án trùng tu. Yêu cầu bảo tồn cao nhất với là giữ nguyên trạng, nếu đủ cơ sở thì mới trùng tu tái định vị, không làm lại những gì không xác định được. Nhưng quan trọng hơn là phải tạo một sự phân biệt để cho biết đâu là kiến trúc cổ, đâu là phần mới trùng tu.

Hiệu quả trùng tu, tôn tạo, khôi phục lại diện mạo di tích là điều kiện đẩy mạnh các hoạt động phát triển du lịch tại di sản. Để đưa lợi ích của phát huy giá trị di sản về với cộng đồng, chính quyền địa phương đã tuyên truyền, giáo dục giá trị di sản cho nhân dân, tạo việc làm cho người dân địa phương qua các dự án (như dự án Homestay Mỹ Sơn, Làng Du lịch cộng đồng Mỹ Sơn...). Từ năm 2003 - 2004, các cơ quan chức năng đã phối hợp đưa nội dung giáo dục giá trị di sản Mỹ Sơn vào các trường phổ thông ở địa phương, đầu tư nâng cấp hệ thống giao thông đến Mỹ Sơn nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý, bảo tồn và phát triển du lịch. Công tác quản lý bao gồm việc chú trọng đảm bảo an ninh trật tự, giữ gìn cảnh quan môi trường ngày xanh - sạch - đẹp... Nhờ đó, khu di tích Mỹ Sơn đã trở thành điểm du lịch nổi tiếng. Hằng năm, lượng khách  đến  với  di  sản  ngày  càng  tăng, năm 2017, khu đền tháp Mỹ Sơn đón 350 nghìn lượt khách tham quan, con số khá ấn tượng nếu so với khoảng 30 nghìn lượt khách đến khu đền tháp trong năm 1999[12]. Kinh phí thu được từ hoạt động du lịch đã góp phần quan trọng để trùng tu, bảo tồn di sản, phát triển kinh tế - xã  hội địa phương.

4. Kết luận

Di sản văn hóa là sức mạnh nội sinh tiềm tàng, thúc đẩy sự phát triển bền vững của quốc gia, dân tộc nói chung và các địa phương nói riêng. Bảo tồn di sản văn hóa, do vậy, không chỉ là nghĩa vụ mà còn là quyền lợi thiết thực của mỗi người. Nắm vững quy luật, tìm ra phương thức, hoạch định chiến lược, giải quyết những vấn đề đang nổi cộm, có hệ thống giải pháp, biện pháp cụ thể, hiệu quả… chính là những điều kiện cần và đủ để công tác, bảo tồn, phát huy di sản văn hóa có được bước phát triển mới mang tầm vĩ mô.

Từ kinh nghiệm chung của Việt Nam về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể, ở Quảng Nam có thể nêu 6 yêu cầu quan trọng hiện nay như sau: Thứ nhất, khảo sát đúng thực trạng các di sản văn hóa, nhanh chóng hoàn thành quy hoạch tổng thể làm cơ sở cho các dự án bảo tồn tổng thể. Thứ hai, trung ương và địa phương cần có chính sách đầu tư kinh phí để nghiên cứu, trùng tu, tôn tạo và bảo vệ các di sản văn hóa. Thứ ba, cần có chính sách kêu gọi các nguồn đầu tư từ các nước, các tổ chức văn hóa quốc tế. Thứ tư, đẩy nhanh tiến trình xã hội hóa việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa, phải làm cho cán bộ và quần chúng hiểu rõ đây là tài sản quý giá của cả dân tộc, phải có thái độ trân trọng ý thức bảo tồn di sản. Thứ năm, phải thức tỉnh những tiềm năng kinh tế tiềm ẩn trong di sản thông qua kinh tế du lịch. Thứ sáu, tăng cường công tác giáo dục pháp luật và nâng cao kiến thức về di sản một cách rộng rãi.

Cần phải nhận thức rằng không chỉ là với từng loại hình cụ thể, ngay cả những trường hợp cụ thể của di sản văn hóa vật chất cũng cần phương pháp tiếp cận và ứng xử khác nhau cho mục tiêu bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Nếu phân tích rõ sẽ thấy, Hội An có đặc điểm của một đô thị sống; còn Mỹ Sơn mang đặc điểm của một di tích phế tích của một quốc gia cổ. Mỗi di sản có những yêu cầu riêng, vì vậy công tác trùng tu, bảo vệ, khai thác cho phát triển phải phù hợp với đặc điểm thực tế của di sản và điều kiện của địa phương. Với một số trường hợp, có lẽ nên chấp nhận việc phục dựng một số hạng mục di tích nằm ngoài quy hoạch nguyên bản để có không gian văn hóa cho việc thực hành các nghi thức tín ngưỡng và lễ hội, nếu như điều đó sẽ đem lại lợi ích tổng thể cho cả văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể. Với một số trường hợp khác như các khu di tích khảo cổ tồn tại dưới dạng phế tích, với những giá trị tiềm ẩn mà chưa thể nhận diện được hết, thì nguyên tắc tổng quát là không nên có bất cứ sự can thiệp nào mà không có sự nghiên cứu cẩn thận từ trước. Đứng trên khía cạnh mỹ quan, tình trạng phế tích kiến trúc được bảo tồn trong điều kiện kỹ thuật ổn định, hài hòa với tự nhiên hoang dã cũng tạo ra nét hấp dẫn cho du lịch.

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa vật thể trên địa bàn tỉnh Quảng Nam vẫn còn nhiều hạn chế, chưa tương xứng với bề dày lịch sử, nguồn di sản của tỉnh. Nhiều loại hình di sản ở vùng miền núi, vùng dân tộc thiểu số đang có nguy cơ bị mai một. Sự xuống cấp của một số di tích (nhất là trong các buôn/làng) vẫn đang ở mức báo động. Tình trạng lấn chiếm, vi phạm di tích - danh thắng chưa được khắc phục triệt để. Ở nơi này, nơi kia vẫn còn để xảy ra tình trạng làm sai lệch giá trị vốn có của di tích, bỏ di tích gốc để xây dựng công trình mới. Việc sưu tầm tầm các loại tài liệu, hiện vật quý hiếm chưa tương xứng với tiềm năng về điều kiện tự nhiên, xã hội của địa phương. Nạn đào tìm, trộm cắp cổ vật đó đây vẫn có. Điều kiện về cơ sở vật chất kỹ thuật, chất lượng cán bộ, các cơ chế chính sách trong lĩnh vực di sản chưa đáp ứng kịp thời. Công tác quảng bá hình ảnh di sản và gắn kết các di sản văn hóa với hoạt động du lịch, tham quan còn hạn chế…

Để có thể đưa công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể ở Quảng Nam lên tầm chiến lược, thực hiện một cách khoa học, đạt chuẩn quốc gia và quốc tế, đặc biệt là khai thác đầy đủ giá trị di sản văn hóa vào phát triển kinh tế - xã hội, trước hết cần phải có những nhận thức cần thiết về xu hướng, kinh nghiệm ứng xử với di sản điển hình ở Việt Nam. Năng lực bảo tồn và phát huy di sản của tỉnh chỉ có thể được nâng cao không chỉ qua những trải nghiệm ở địa phương, mà còn phải qua tăng cường giao lưu, trao đổi kinh nghiệm trong công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản, từ đó góp phần quảng bá tiềm năng văn hóa, thương mại và du lịch, liên kết phát triển du lịch di sản bền vững giữa các vùng miềnq



* Viết chung với Nguyễn Thanh Tùng, Văn hóa Quảng Nam động lực phát triển kinh tế - xã hội bền vững, Nxb Đà Nẵng, 2019.

[1].Nguyễn Ngọc Thanh (Chủ biên), Việt Nam những vùng địa linh nhân kiệt, Nxb Khoa học xã hội, Tập 2, Hà Nội 2014, tr.161.

[2].Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Nam, khóa VIII, kỳ họp thứ 14 (2015), Nghị quyết về đầu tư tu bổ di tích Quốc gia và di tích cấp tỉnh trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2016 - 2020, số 161//2015/ NQ - HĐND.

3.UBND tỉnh Quảng Nam (2019), Quy chế về quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, 2019.

[4].Đặng Thị Tuyết, “Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4 (89), 2015, tr.99.

 [5] Nguyễn Thị Thu Hà, Quản lý di sản văn hóa và phát triển du lịch ở đô thị cổ Hội An, tỉnh Quảng Nam, Luận án Tiến sĩ Văn hóa học, Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam, Hà Nội, 2016, tr.69-73.

[6] Nguyễn Thị Thu Hà, Quản lý di sản văn hóa và phát triển du lịch ở đô thị cổ Hội An, tỉnh Quảng Nam, Tlđd, tr. 67.

 [7]http://dangcongsan.vn/tu-tuong-van-hoa/quan-ly-bao-ton-va-khai-thac-di-san-cau-chuyen-tu-hoi-an-495300.html 25/08/2018.

 [8] UNESCO, Bảo tồn Di sản Thế giới Mỹ Sơn (2003 - 2013): Báo cáo tổng kết dự án, Hà Nội, 2013, tr.32.

[9] UNESCO, Bảo tồn Di sản Thế giới Mỹ Sơn (2003 - 2013, Tlđd, tr.24.

 [10] UNESCO, Bảo tồn Di sản Thế giới Mỹ Sơn (2003 - 2013, Tlđd, tr.47.

[11] Trương Minh Dục (2005), “Vấn đề bảo tồn các di sản văn hóa Chăm pa hiện nay”, Tạp chí Dân tộc học, Số 1, tr.61.

 [12] http://baoquangnam.vn 12.4.2018.

Thứ Hai, 21 tháng 9, 2020

ĐẶC TRƯNG LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI TÀY, NÙNG Ở VIỆT BẮC- Nguyễn Ngọc Thanh, Tạp chí Dân tộc học, số 4 (136), 2005.

  

Lễ hội truyền thống của hai dân tộc Tày, Nùng có nhiều điểm tương đồng so với lễ hội của các dân tộc khác cư trú trên đất nước Việt Nam. Những nét tương đồng này thể hiện từ mục đích, nghi lễ, không gian và thời gian, đó cũng là môi trường góp phần quan trọng tạo nên niềm cộng mệnh và cộng cảm của sức mạnh cộng đồng[1]. Bởi lẽ, lễ hội truyề thống của hai dân tộc Tày, Nùng nảy sinh trên nền tảng nông nghiệp lúa nước.  Tuy nhiên, cũng như các hiện tượng văn hóa  tinh thần khác, lễ hội của một dân tộc thường chịu sự tác động trực tiếp của những điều kiện lịch sử, xã hội, kinh tế, địa lý. Do vậy, bên cạnh nét chung, lễ hội của hai dân tộc Tày, Nùng còn có những nét riêng mang đậm bản sắc văn hóa của dân tộc mình.

1.   Nhận diện lễ hội Tày, Nùng

Qua tài liệu đã điền dã dân tộc học và các công trình đã công bố, chúng tôi tạm phân loại lễ hội của hai dân tộc Tày, Nùng thành 4 loại:

- Lễ hội liên quan đến nông nghiệp (hội lồng tồng, hội Nàng Hai-còn gọi là hội nàng Trăng, hội cầu mùa, cầu mưa, cúng rừng).

- Lễ hội liên quan đến tôn giáo (hội đình, hội chùa).

- Hội hát giao duyên (hát Sli, hát Lượn)

- Lễ hội mang tính thượng võ (hổ tranh đầu pháo)

Nhìn chung, lễ hội của hai dân tộc Tày, Nùng thường được tổ chức vào mùa xuân và mùa thu là thời gian mùa vụ, còn gọi là thời gian vũ trụ của ngày hội. Thời gian diễn ra lễ hội từ 3 - 4 ngày. Một số lễ hội có quy mô rộng lớn trong cả vùng (hội lồng tồng, hội Nàng Hai).

      1.1   Lễ hội nông nghiệp

Liên quan đến nông nghiệp ở người Tày và người Nùng có rất nhiều lễ hội được tổ chức vào nhiều thời điểm khác nhau trong năm, ở mỗi vùng, mỗi địa phương cách thức tổ chức cũng khác nhau.

Hội lồng tồng, tiếng Tày, Nùng có nghĩa là xuống đồng, với ý nghĩa mở đầu cho một màu cày cấy mới, được tổ chức hàng năm vào ban ngày, dịp đầu xuân. Hội lồng tồng thường tổ chức liên bản, có khi hội tổ chức cho một vùng, thu hút hàng vạn người tham gia. Cho nên, thường người ta thu xếp, bàn bạc để hội các nơi mở xen kẽ nhau, dân bản này có thể tới bản kia dự hội.

Hội có hai phần: Phần lễ và phần hội. Tùy từng nơi, chủ trì hội là ông “Thại đình” (người coi đình) hoặc ông trông coi việc thờ cúng thần nông. Theo tục lệ, sáng sớm ngày mở hội, các gia đình sắm cỗ đem ra trước ban thờ có cắm cây nêu bằng tre dán giấy đỏ ở sân đình hoặc trên thửa ruộng khô. Trước khi vào lễ, người ta tổ chức cử hành long trọng đám rước thần linh, thần nông và thành hoàng từ đình đến thửa ruộng làm lễ. Ông chủ lễ (thại đình) trong lễ phục, kính cẩn làm lễ cầu khấn thần nông phù hộ cho dân làng một năm mới mùa màng bội thu. Tế lễ xong, làng mở hội trong đó có các trò chơi truyền thống: múa sư tử, kéo co, đấu vật, tung còn.

Khác với hội lồng tồng tổ chức vào ban ngày, trên núi cao, giữa cánh đồng hay trên sân đình, hội Nàng Hai thường tổ chức về ban đêm vào những năm mất mùa do thiên tai: hạn hán, lũ lụt, sâu bệnh phá hoại mùa màng. Hội mở vào tháng Tết, trong những đêm có trăng, có khi kéo dài từ trung tuần tháng giêng đến trung tuần tháng ba. Mục đích của lễ hội là cầu mùa, cầu sự bình yên cho dân làng năm ấy; nhưng vị thần mà đồng bào Tày, Nùng cúng bái ở đây không phải là thần nông mà là mẹ Trăng.

Theo tín ngưỡng dân gian Tày, Nùng trên cung trăng có mẹ Trăng và mười hai nàng tiên, những con gái của mẹ. Mẹ cùng bầy tiên hàng năm chăm lo bảo vệ mùa màng cho dân. Hội Nàng Hai gồm những nghi lễ bài ca, cuộc vui để đón mẹ Trăng và các cô tiên xuống thăm trần thế, thông cảm ước nguyện của người trần, nhận những lễ vật tương trưng cho phong đăng, hòa cốc và sau đó người trần sẽ đưa tiễn mẹ Trăng và các cô tiên về trời. Trước ngày vào hội, theo tục lệ trong bản chọn một bà già phúc hậu, gia đình hạnh phúc, biết nhiều làn điệu dân ca đóng vai mẹ Trăng và 10 cô gái trẻ đẹp, nết na, hát hay đóng vai các tiên nữ; mẹ Trăng dạy cho các những bài hát truyền thống, những điệu lượn hai (lượn trăng) sẽ hát trong đêm hội. Khi chuẩn bị gần xong dân bản chọn những thửa ruộng to ở gần làng hoặc trước sân đình để dựng rạp. Trong rạp bày bàn thờ trang trí bằng hoa khảo quảng và hoa bjóc - lồm; phía trên bàn thờ treo một tấm vải lớn màu đỏ hoặc đen, ở giữa thêu hay vẽ hình mặt trăng lưỡi liềm màu vàng hoặc trắng; tiếp theo bàn thờ là hai dãy bàn để đặt cỗ và lễ vật do các gia đình đem đến cúng. Đây cũng là sân khấu dân gian, nơi diễn ra cuộc gặp gỡ giữa dân bản với nàng Trăng.

Hình thức diễn xướng cũng như nội dung của Hội Nàng Trăng đều thể hiện nghi thức nông nghiệp. Hội được tiến hành dưới sự điều hành của một bà then có uy tín. Mở đầu hội, bà then bước ra sân khấu trong bộ lễ phục màu đỏ làm lễ, mời mẹ mặt Trăng xuống trần gian “nhập hồn” người đã chọn đóng làm mẹ Trăng.

Phần chính của đêm hội là cuộc hát đối đáp giữa nàng Trăng và dân làng, cầu mong sự bình yên, thịnh vượng của cải dư thừa đến với mọi nhà.

Kết thúc lễ hội là hình ảnh mẹ Trăng tung những nắm bỏng lúa trắng xóa, tượng trưng cho những hạt giống để lại cho người trần, tay mẹ Trăng tung bỏng, miệng đọc những câu “phù chú” cầu chúc mọi sự tốt lành đến với mọi người trong bản. Mọi người thi nhau nhặt những “hạt giống” trời ban cho để mang về làm khước[2].

Hội cầu mưa cũng mang dáng dấp của lễ hội lồng tồng. Ngày hội thường được tổ chức vào cuối tháng 3 đầu thàng 4 âm lịch. Dân làng tổ chức tế lễ ven sông với các trò chơi chèo thuyền, đua thuyền giật giải cùng các trò bơi lội khác. Mục đích của hội là cầu mưa, mong mùa màng bội thu, gia súc đầy đàn cuộc sống ấm no hạnh phúc.

Hội cúng rừng được tổ chức vào cuối tháng giêng đầu tháng hai âm lịch, nơi tổ chức là khu rừng cấm ở đầu bản. Mỗi năm các làng tổ chức  hội cúng rừng khoảng hai, ba ngày, người đại diện gia đình đến dự hội phải là con trai. Dịp này mọi công việc sản xuất đều ngừng lại. Ngày hội đầu tiên, người ta tổ chức lễ cúng tạ ơn, cầu xin “thổ địa”. Người hành lễ là một cụ già có uy tín và biết các bài cúng. Khi cúng, tất cả các thành viên nam giới của bản đều tập trung ngồi sau người hành lễ. Người chủ lễ đọc tên từng thành viên của bản, báo cáo với thần những người đã chết hay người mới sinh, những người mới lấy vợ, những người ở nơi khác nhập cư, người ở bản đã chuyển đi, đồng thời thông báo với thần tình hình súc vật trong bản, những khu vực trồng trọt của bản để thần biết mà trông nom bảo vệ. Sau đó các thành viên của bản ở lại ngay nơi hành lễ để bàn những công việc chung của bản.

Theo tục lệ, các gia đình ở thôn bản khác và đồng bào các dân tộc khác trong khu vực cũng được phép dự hội miễn là phải tuân thủ các qui định của bản như: không được thả rông gia súc, gia cầm phá hoại mùa màng người khác, không chặt phá cây rừng bừa bãi… Những ngày sau là những ngày vui chơi, thi đấu trong nội bộ bản hay giữa các bản với nhau.

1.2  Hội đền, hội chùa

Do ảnh hưởng của văn hóa người Kinh (Việt) nên ở vùng người Tày, Nùng cũng có một số ngôi chùa thờ Phật. Ngoài ra còn có nhiều đền miếu thờ các nhân vật anh hùng của dân tộc như: Trần Hưng Đạo, Hai Bà Trưng, Đinh Tiên Hoàng, các vị sơn thần, thủy thần… Đến với lễ hội này mọi người thành kính thắp hương, dâng lễ cầu xin thần thánh, trời phật phù hộ độ trì, che chở cho gia đình một năm mới khỏe mạnh, làm ăn phát đạt.

1.3  Hội tranh đầu pháo

Lễ hội này có ở Cao Bằng, Lạng Sơn, nội dung mang tính thượng võ, đề cao sức khỏe với trò chơi tranh đầu pháo, cầu phúc.

Lễ hội có hai phần chính, phần tế lễ trời đất với bàn thờ phúc và phần hội với nhiều trò vui: múa sư tử, đốt pháo, biểu diễn võ thuật. Trong đó, quan trọng nhất là trò đốt pháo với tục tranh đầu pháo, còn gọi là tranh vòng phúc. Đầu pháo là một chiếc vòng quấn vải điều đặt trên ngòi một chiếc pháo đùng để ở vị trí cao nhất của một cây pháo lớn được làm từ nhiều tràng pháo dài quấn xung quanh. Khi cây pháo nổ hết, chiếc vòng được tung lên cao, tốp thanh niên vây xung quanh, ai nhanh tay cướp được sẽ mang đầu pháo chạy thật nhanh đến bàn thờ phúc lạy ba lạy và được công nhận là người thắng cuộc [3].

1.4   Hội hát Sli, hát Lượn

Hát Sli, hát Lượn là lối hát đối đáp, hát giao duyên của trai gái Tày, Nùng thường tổ chức vào mùa xuân và các phiên chợ. Vào những dịp đó, trai gái Tày, Nùng mặc bộ y phục nhuộm chàm đẹp nhất của dân tộc mình để đi trảy hội. Trai làng này thường thường đến hát Sli, Lượn với gái làng kia. Họ có thể hát suốt đêm, càng hát càng say mê. Trong khi hau bên trai, gái thổ lộ tâm tình với nhau bằng lời hát thì những người đến dự cũng say mê chẳng kém gì người trong cuộc. Với người già, Sli, Lượn làm sống lại kỉ niệm đẹp đẽ của buổi thiếu thời; với tuổi trẻ Sli, Lượn là lúc thi tài ứng đáp thể hiện tình yêu. Trong những ngày chợ phiên trai gái Tày, Nùng túm năm, tụm ba hát với nhau, ban đầu để làm quen, tan buổi chợ họ tiễn biệt nhau, hẹn gặp lại ở phiên chợ sau. Sau nhiều lần hát với nhau, họ yêu nhau và thành vợ, thành chồng.

2.   Sắc thái riêng trong lễ hội Tày, Nùng

2.1   Biểu hiện tín ngưỡng sơ khai qua các hình thức lễ nghi và các trò chơi trong ngày hội

Quan niệm vạn vật hữu linh là một biểu hiện của tín ngưỡng sơ khai không chỉ thấy ở các tộc người thuộc ngôn ngữ Môn - Khơ me, Tạng - Miến, Hmông - Dao, Việt - Mường mà còn thấy thể hiện khá rõ trong các lễ hội Tày - Nùng.

Trong các lễ hội của người Tày, Nùng đều có chung quan niệm, cây lúa và con trâu đều có hồn, vía giống như con người. Muốn cho lúa trổ bông, trâu bò khỏe mạnh thì phải làm lễ cúng hồn, nếu không chẳng những năm đó mùa màng thất bát mà con người cũng gặp nhiều trở ngại trong đời sống. Theo quan niệm của đồng bào, sau một mùa lao động nặng nhọc, vất vả trâu, bò mệt mỏi nên bạt cả hồn vía; thu hoạch mùa màng xong cần phải làm lễ thu lại hồn vía của trâu, bò đang lang bạt đâu đó trên núi cao, rừng rậm trở về nhập lại để cho khỏe mạnh chuẩn bị một mùa vụ mới phục vụ con người. Vì vậy, trong lễ hội lồng tồng ngoài các nghi thức chung bao giờ cũng có nghi lễ cúng hồn lúa, gọi vía trâu, bò. Trong lễ cúng gọi vía trâu, bò người Tày, Nùng thường có các bài cúng vía, luyện vía, kết đoàn vía… Sau đó là các bài mừng trâu đực, mừng trâu cái, mừng nghé [4].

Trong lễ hội Nàng Hai hiện tượng nhập hồn để mời nàng Hai là biểu hiện của sa man giáo, tín ngưỡng phổ biến trong xã hội nguyên thủy.[5]

Tung còn là trò chơi không thể thiếu được trong lễ hội lồng tồng. Trên bãi chơi, người ta dựng một cây mai dài khoảng 15 - 20 m gọi là phổng còn. Trên ngọn buộc một vòng tròn dán giấy đỏ và vàng mỏng, mỗi mặt viết một chữ nho: mặt đỏ viết chữ “nhật”, mặt vàng viết chữ “nguyệt” biểu hiện âm dương. Cây nêu (phổng còn) dựng theo hướng đông - tây vừa mang tín ngưỡng cần ánh sáng, vừa mang tín ngưỡng phồn thực, vì đó là dấu hiệu màng trinh nữ. Ngoài ra còn có quả cầu khâu bằng vải, trong nhồi thóc, ngoài đính các tua vải nhiều màu làm đuôi còn. Lệ tục xưa, mỗi nhà khâu hai quả, cúng thần nông xong thì đem ra hội chơi. Thanh niên nam nữ đứng riêng hai bên phổng còn, bắt đầu tung và ném còn cho nhau. Ai ném quả còn làm thủng tâm sẽ thắng cuộc, trong năm gặp nhiều may mắn, đồng thời dân làng cũng yên tâm vì như vậy bản làng sẽ được mùa. Năm nào còn không ném thủng vòng giấy thì phải tổ chức thi lại vào rằm tháng giêng vì sợ mất mùa. Theo tục lệ, quả còn nào ném trúng đích sẽ được mang về thờ tại đình. Ở một số nơi người ta rạch quả còn trúng đích lấy hạt thóc, hạt bông ban phát cho mọi người, với ý nghĩa là hạt giống của thần nông cho.

Kéo co là trò chơi tổ chức theo làng hoặc theo xóm và chia thành hai phe ở các vị trí đông, tây, nam, bắc. Vào cuộc, người ta chia thành hai phe đông - tây với ý nghĩa âm dương (đông: nhật, tây: nguyệt). Lúc đầu là kéo lấy lệ cốt để bên đông thắng liền 3 cuộc rồi cuộc chơi mới bắt đầu. Người ta cho rằng bên đông thắng tức là mặt trời thắng thì làm ăn mới được mùa.

Múa sư tử, là trò chơi phổ biến của hai dân tộc Tày, Nùng ở Việt Bắc. Tùy từng nơi mà trò chơi này có từ một đến hàng chục con sư tử tham gia. Trò chơi múa sư tử có liên quan đến tín ngưỡng cầu mưa được truyền tụng ở Văn Lãng (Lạng Sơn). Chuyện kể rằng: có lần 12 năm liền không có mưa, trời hạn hán đâu đâu cũng thấy cây cối khô héo, ếch nhái, chim muông và các thú rừng đều sống trong cảnh thoi thóp chờ chết. Chính lúc ấy khỉ cùng báo đông rủ nhau đi tìm nước để cứu muôn loài. Chúng đi mãi, hết ngày này qua ngày khác tới một cửa sông đổ ra biển, nước mênh mông bốn bề chẳng thấy bờ đâu nữa. Khỉ và báo đông vô cùng sung sướng rủ nhau xuống sông uống no nước. Ngày hôm sau khi mặt trời ló lên khỏi mặt nước, khỉ và báo đông thấy một đàn vật to đẹp lạ thường đi từ biển lên. Tưởng là vật dữ, nhưng ngó chúng có vẻ hiền lành, khỉ và báo đông tới gần true chúng cũng không việc gì, liền vạch mồm chúng ra xem, thấy những hàm răng to. Đó là những con sư tử. Báo đông và khỉ rủ sư tử về nơi ở của mình. Sư tử về tới nơi liền đi múa chào tất cả các loài vật. Mọi con vật đang khát nước đều phấn chấn hẳn lên múa theo. Thế là hội múa của sư tử và các loài vật diễn ra tưng bừng náo nhiệt vang động cả núi rừng. Khi sư tử múa xong thì trời bỗng tối sầm lại, mây đen ùn ùn kéo tới, sấm sét vang trời, rồi trời đổ mưa như trút nước. Chỉ trong chốc lát nước đầy đồng ruộng, cây cối xanh tươi trở lại.

Kể từ mùa xuân năm ấy, báo đông luôn tổ chức những ngày múa sư tử để mong mưa. Sau này khi báo đông đã biến thành người vẫn nhớ tục lệ xưa. Hàng năm, mỗi khi tổ chức hội xuân lại múa sư tử để cầu mưa. Ngày nay, khi tổ chức lễ hội nếu làng nào không có đội múa thì đi mời đội múa sư tử ở nơi khác và có quy định rước sư tử ở bên sông theo ý nghĩa của truyền thuyết để lại.

Một số nơi ở Lạng Sơn, Tuyên Quang còn có trò sĩ nông, mục đích của nó là nhằm để cao nghề nông qua việc kén chồng của một tiên nữ, rất nhiều người ở các ngành nghề khác nhau đến cầu hôn nhưng cô lại chọn anh nông dân để làm chồng[6]. Trong lễ hội lồng tồng một số vùng người Tày, Nùng ở các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng còn có trò gieo giống má, người chủ hội rải hạt giống và nói đây là giống nếp, đây là giống tẻ, giống ngô, giống đậu. Đọc xong một tên giống, người ta lại tung lên trời một nắm tiền xu, mọi người  tranh nhau vào nhặt tiền xu. Họ tin rằng, ai nhặt được giống gì thì năm đó trồng thứ ấy sẽ tốt. Nhặt được càng nhiều hạt sẽ cho là càng may.

Đặc biệt trong hội xuống đồng của người Tày ở vùng ven sông Hồng, sông Chảy có trò múa kiếm, múa mộc. Trong các động tác múa, đáng chú ý động tác đâm kiếm vào mộc. Khi đâm, đỡ, tay cầm kiếm, mộc giơ thẳng nhưng thân người hơi ưỡn phía trước. Phải chăng việc này gợi lại hình ảnh tính giao?

2.2   Tín ngưỡng đa thần, tín ngưỡng thờ mẹ

Trong tất cả các lễ hội của người Tày, Nùng việc đầu tiên là phải dâng lễ trình xin phép mở hội đến các vị thần linh, thổ địa (Thần Đất, Thần Nước, Thần Mưa, Thần Đá, Thần Núi, Thành Hoàng), là những thần bản mệnh của bản, của địa phương. Đây là những vị thần được con người cho là hiện thân của sức mạnh tự nhiên có tác động trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp và sức khỏe con người. Trong xã hội nông nghiệp sơ khai, khi mà con người chưa lý giải được các hiện tượng tự nhiên thì thần thánh trở thành niềm tin tuyệt đối.

Việc lễ tế các thần trong các lễ hội phần lớn có các nghi thức giống nhau, theo các bước: thắp hương, giới thiệu, trình lễ, khao ngựa, lên đường. Chẳng hạn hội lồng tồng, hội Nàng Hai có điểm chung như sau:

Địa điểm hội là một đám ruộng cao ráo sạch sẽ. Trên đám ruộng, thầy Tào cắm bùa chú định vị 4 hướng đông, tây, nam, bắc nhằm mục đích trừ tà ma. Đồ lễ dân bản tự giác chuẩn bị và thường mâm cúng các thần có thủ lợn hoặc gà luộc, xôi, rượu. Người chủ trì việc cúng tế là ông trùm trưởng có uy tín trong bản được cử trông nom đình thờ hoặc ông thầy mo có kinh nghiệm.

Nội dung tế lễ, trước hết là trình báo để các vị thần linh biết và xin phép  mở hội làng bằng thức âm dương, đồng thời  tạ ơn các thần đã phù hộ cho một năm gieo trồng thuận lợi, mưa thuận gió hòa.

Trong hội Nàng Hai, sau khi thực hiện xong các nghi thức trình báo với các thần, người ta tiến hành hàng loạt nghi lễ liên quan đến việc cầu phúc, cầu mùa. Trong lễ hội này tín ngưỡng thờ mặt trời cũng xuất hiện thông qua lễ mời nàng Hai từ mường trời về ban mùa màng và phúc lành cho dân bản. Ở một số nơi, lễ hội được kết hợp với múa, hát. Lời hát miêu tả hành trình của đoàn người trần gian lên mường trời cống hoa và cầu xin các mẹ Trăng ban phát hạt giống, con giống, triệt phá sâu bọ cho con người.

Hội cúng rừng của người Nùng bên cạnh việc tổ chức lễ cúng tạ ơn và cầu xin thần thổ địa, đồng bào còn có mâm lễ cúng thần rừng gồm một con lợn, con gà trống, một chai rượu. Khi cúng, thầy cúng phải khấn 3 bài cúng là: mời thần rừng, xin thần rừng cứu giúp dân, mổ lợn, gà nạp lễ. Có tục cúng rừng, do tương truyền con người tồn tại được là nhờ núi rừng, thời tiết thuận hòa, đất đai màu mỡ, cây cỏ hoa lá xanh tươi. Cũng như con người, đất trời rừng núi có tổ tiên, linh hồn. Nó bảo vệ, che chở cho thế giới thiên nhiên luôn tồn tại và phát triển. Vì vậy, cùng với viêc thờ cúng gia tiên trong các ngày lễ Tết cổ truyền để đền đáp công ơn của tổ tiên cũng phải cúng núi rừng, cầu thần rừng che chở cho gia súc, gia cầm sinh sôi nảy nở, mùa màng luôn được phát triển tốt tươi không bị mưa gió vùi dập.

Rõ ràng việc thờ đa thần là tàn dư của việc thờ cúng các vị thần bảo vệ cho công xã nông nghiệp, giai đoạn xã hội chuyển biến từ nguyên thủy sang xã hội có giai cấp.

Tín ngưỡng thờ mẹ bắt nguồn từ truyền thống coi trọng mẹ sinh sản. Nữ thần trông coi việc sinh sản tiếng Tày, Nùng gọi là mẹ Hoa (Mẻ Bjoóc). Theo quan niệm của đồng bào mẹ Hoa ở trên trời mới là mẹ đẻ, còn mẹ ở trần gian chỉ là người thừa lệnh mẹ Hoa sinh ra con. Mẹ Hoa được thờ cúng cùng với các nghi lễ gắn với thời kỳ sinh nở của phụ nữ. Từ truyền thống đó, với tư duy nông nghiệp đề cao vai trò của phụ nữ mà gắn vai trò sinh sản với mẹ nông nghiệp thông qua hình ảnh mẹ Trăng. Lễ hội Nàng Hai với tục thờ mẹ Trăng có liên quan đến tục thờ mẹ nói trên. Tùy từng hình thức và nội dung cụ thể mà vai trò của mẹ Trăng được thể hiện khác nhau. Có nơi mẹ Trăng được đồng nghĩa với Pựt luông (Phật lớn), là mẹ cai quản cung Quảng Hàn, trông coi mọi mặt trong đời sống con người. Có nơi mẹ Trăng đồng nghĩa với mẹ Hoa bao gồm nhiều mẹ được gọi chung là mẹ Nàng Trăng (mẻ Nàng Hai), mỗi mẹ cai quản một mặt trong sản xuất nông nghiệp ở mường trời, mường trăng với các tên gọi như: mẹ Lan Ba, mẹ Khắc Cơ, mẹ Bích Vân, mẹ Mạ Mì, … Tục cúng hoa và lễ dâng hoa, khao hoa trong hình thức lễ hội này phản ánh quan niệm mang hoa lên mường trời cống mẹ Hoa của người Tày còn thấy trong Lượn Cọi [7]. Đôi nơi thờ Thành Hoàng là những thần bản mệnh của bản, của địa phương.

2.3   Sự phản ánh của các tín ngưỡng du nhập

Thờ Phật là một trong các tôn giáo phổ biến ở người Việt có ảnh hưởng đến người Tày, Nùng qua hệ thống chùa chiền. Hội  chùa ở các vùng này thường đơn giản với tục dâng hương lễ Phật. Giống như người Việt, một số ngôi chùa của người Tày, Nùng trong bài trí cũng phản ánh tín ngưỡng đa thần. Chùa Tiên đặt trong động núi đá Đại Tượng, xã Mai Pha, Chi Lăng (Lạng Sơn). Chính giữa tác động là ngôi Tam Bảo thờ các Đức Phật tổ. Cung bên phải, phía trên thờ Đức Thánh Trần (Trần Hưng Đạo), phía dưới là bệ thờ Phạm Công (Phạm Ngũ Lão), gần cửa chính thờ  các đức Phật Thánh Mẫu. Cung bên trái thờ các linh hồn đức Phật qui vong. Hàng năm chùa Tiên có 8 kỳ lễ chính trùng với các ngày lễ tiết ở miền xuôi.

Chùa Mẫu Sơn, tên thường gọi là chùa Trung Thiện ở xã Tú Đoạn, huyện Lộc Bình là một ngôi chùa thờ Trời và Phật. Chùa làm ở chân núi Mẫu Sơn (núi mẹ). Núi có hai đỉnh: Đỉnh dương và đỉnh âm, gọi là ông dương bà âm, âm dương hòa hợp thì trời quang mây tạnh, đất mang vẻ đẹp. Hàng năm hội chùa vào 14 và 15 tháng giêng âm lịch với nhiều trò vui, đặc biệt có trò đoán định thời tiết. Như vậy, lễ hội ở đây phản ánh sự hòa nhập giữa tín ngưỡng nông nghiệp (thờ trời đất, âm dương) với tín ngưỡng thờ Phật. Ngoài ra, ở vùng người Tày cũng dựng các đình làng với hình thức đơn giản chủ yếu dùng làm nơi tế tự thần nông trong ngày hội lồng tồng tháng giêng. Tuy nhiên, một số nơi đình được xây dựng khá công phu, bài trí trong đình giống như ở miền xuôi. Ngày hội đình làng được tổ chức vào tháng 4 âm lịch với các hình thức sinh hoạt giống như ở miền xuôi. Người ta tổ chức đàn hát pha trộn giữa tiếng Việt và tiếng Tày, có tổ chức cúng tế ăn uống ngay tại đình.

 

2.4   Tính dân chủ, bình đẳng qua lễ hội Tày, Nùng

Một trong những đặc trưng nổi bật của lễ hội Tày, Nùng là tính dân chủ, bình đẳng. Đến dự hội bất kể là giàu, nghèo, sang, hèn mọi người cùng tắm mình trong không khí hội; tất cả mọi người đều có thể tham gia vào các trò chơi, diễn xướng, thi tài với nhau. Ngay cả trong ăn uống ở các lễ hội cũng mang tính cộng cảm, bình đẳng. Trong khi ăn, người ta ngồi quây quần theo lứa tuổi, giới tính không phân biệt địa vị chức tước. Trong một số lễ hội, người ta còn bàn bạc xây dựng qui ước cộng đồng (lễ cúng rừng của người Nùng). Lúc đó những người đến tham dự đều được tự do bàn bạc, đóng góp ý kiến.

3.   Một vài nhận xét

- Căn cứ vào qui mô của hội, có thể chia lễ hội truyền thống của người Tày, Nùng thành hai loại: hội làng và hội liên làng. Trước hết là hội làng, đây là lễ hội phổ biến, diễn ra trong phạm vi một làng như hội cúng rừng, hội chùa, đền, hội mang tính thượng võ. Hội liên làng có khi trở thành hội của một vùng như hội lồng tồng, hội nàng Trăng, hội Sli.

- Lễ hội Tày, Nùng là một hình thức sinh hoạt tín ngưỡng, mang đậm dấu ấn của cư dân nông nghiệp, thể hiện qua tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng cầu mưa, tín ngưỡng thờ mặt trời, phải chăng là những biểu hiện của sự tìm về của cội nguồn cộng đồng.

- Lễ hội được tổ chức tập trung chính vào mùa xuân, số lễ hội tổ chức vào mùa thu rất ít. Như vậy, có thể thấy yếu tố mùa vụ qua việc tổ chức lễ hội; điều đó góp phần cho thấy việc cầu mùa và canh tác lúa nước hai vụ xuân- thu khá rõ, trong đó canh tác lúa xuân (chiêm) là chủ yếu.

- Lễ hội của người Tày, Nùng cũng có sự ảnh hưởng của người Việt, đó là hàng loạt các lễ hội chùa, đền ở khắp các vùng Việt Bắc từ Lạng Sơn đến Cao Bằng, Tuyên Quang.

- Ngày nay, nhiều giá trị của lễ hội truyền thống của hai dân tộc Tày, Nùng còn đáp ứng được những nhu cầu cơ bản của con người, xã hội hiện đại. Rất tiếc là, trong một thời gian dài do nhiều lý do khác nhau mà một số lễ hội truyền thống của hai dân tộc này không được tổ chức và có nguy cơ bị mai một. Vì vậy, việc phục hồi các lễ hội truyền thống của hai dân tộc Tày. Nùng một số năm gần đây chẳng những đáp ứng được nhu cầu tinh thần của người dân mà còn phù hợp với công cuộc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiến bộ, mang đậm bản sắc dân tộcq



[1] Ngô Đức Thịnh, “Những giá trị của lễ hội cổ truyền trong đời sống xã hội”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật số 3, 2001, tr.7.

[2] Trần Quốc Vượng, Dương Tất Từ, Lê Văn Hảo, Mùa xuân và phong tục Việt Nam, Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1976.

[3] Nguyễn Thị Yên, “Tìm hiểu yếu tố tín ngưỡng trong lễ hội của người Tày, Nùng”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 1, 1998, tr.3

[4] Lê Trung Vũ, “Hội lồng tồng của người Tày”, Tạp chí Dân tộc & Thời đại, số 34, 2001.

[5] Nguyễn Thị Yên, “Tìm hiểu yếu tố tín ngưỡng trong lễ hội của người Tày, Nùng”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 1, 1998, tr.7.

[6] Nhiều tác giả, Các dân tộc Tày, Nùng ở Việt Nam, Viện Dân tộc học, Hà Nội 1992.

[7] Nguyễn Thị Yên, “Tìm hiểu yếu tố tín ngưỡng trong lễ hội của người Tày, Nùng”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 1,1998, tr.8