Lễ
hội truyền thống của hai dân tộc Tày, Nùng có nhiều điểm tương đồng so với lễ hội
của các dân tộc khác cư trú trên đất nước Việt Nam. Những nét tương đồng này thể
hiện từ mục đích, nghi lễ, không gian và thời gian, đó cũng là môi trường góp phần quan trọng tạo nên niềm
cộng mệnh và cộng cảm của sức mạnh cộng đồng[1]. Bởi lẽ, lễ hội truyề thống
của hai dân tộc Tày, Nùng nảy sinh trên nền tảng nông nghiệp lúa nước. Tuy nhiên, cũng như các hiện tượng văn
hóa tinh thần khác, lễ hội của một dân tộc
thường chịu sự tác động trực tiếp của những điều kiện lịch sử, xã hội, kinh tế,
địa lý. Do vậy, bên cạnh nét chung, lễ hội của hai dân tộc Tày, Nùng còn có những
nét riêng mang đậm bản sắc văn hóa của dân tộc mình.
1. Nhận diện lễ hội Tày, Nùng
Qua
tài liệu đã điền dã dân tộc học và các công trình đã công bố, chúng tôi tạm
phân loại lễ hội của hai dân tộc Tày, Nùng thành 4 loại:
-
Lễ hội liên quan đến nông nghiệp (hội lồng
tồng, hội Nàng Hai-còn gọi là hội nàng Trăng, hội cầu mùa, cầu mưa, cúng rừng).
-
Lễ hội liên quan đến tôn giáo (hội đình,
hội chùa).
-
Hội hát giao duyên (hát Sli, hát Lượn)
-
Lễ hội mang tính thượng võ (hổ tranh đầu
pháo)
Nhìn
chung, lễ hội của hai dân tộc Tày, Nùng thường được tổ chức vào mùa xuân và mùa
thu là thời gian mùa vụ, còn gọi là thời gian vũ trụ của ngày hội. Thời gian diễn
ra lễ hội từ 3 - 4 ngày. Một số lễ hội có quy mô rộng lớn trong cả vùng (hội lồng
tồng, hội Nàng Hai).
1.1
Lễ hội nông nghiệp
Liên
quan đến nông nghiệp ở người Tày và người Nùng có rất nhiều lễ hội được tổ chức
vào nhiều thời điểm khác nhau trong năm, ở mỗi vùng, mỗi địa phương cách thức tổ
chức cũng khác nhau.
Hội
lồng tồng, tiếng Tày, Nùng có nghĩa
là xuống đồng, với ý nghĩa mở đầu cho một màu cày cấy mới, được tổ chức hàng
năm vào ban ngày, dịp đầu xuân. Hội lồng tồng thường tổ chức liên bản, có khi hội
tổ chức cho một vùng, thu hút hàng vạn người tham gia. Cho nên, thường người ta
thu xếp, bàn bạc để hội các nơi mở xen kẽ nhau, dân bản này có thể tới bản kia
dự hội.
Hội
có hai phần: Phần lễ và phần hội. Tùy từng nơi, chủ trì hội là ông “Thại đình” (người coi đình) hoặc ông
trông coi việc thờ cúng thần nông. Theo tục lệ, sáng sớm ngày mở hội, các gia
đình sắm cỗ đem ra trước ban thờ có cắm cây nêu bằng tre dán giấy đỏ ở sân đình
hoặc trên thửa ruộng khô. Trước khi vào lễ, người ta tổ chức cử hành long trọng
đám rước thần linh, thần nông và thành hoàng từ đình đến thửa ruộng làm lễ. Ông
chủ lễ (thại đình) trong lễ phục,
kính cẩn làm lễ cầu khấn thần nông phù hộ cho dân làng một năm mới mùa màng bội
thu. Tế lễ xong, làng mở hội trong đó có các trò chơi truyền thống: múa sư tử,
kéo co, đấu vật, tung còn.
Khác
với hội lồng tồng tổ chức vào ban
ngày, trên núi cao, giữa cánh đồng hay trên sân đình, hội Nàng Hai thường tổ chức
về ban đêm vào những năm mất mùa do thiên tai: hạn hán, lũ lụt, sâu bệnh phá hoại
mùa màng. Hội mở vào tháng Tết, trong những đêm có trăng, có khi kéo dài từ
trung tuần tháng giêng đến trung tuần tháng ba. Mục đích của lễ hội là cầu mùa,
cầu sự bình yên cho dân làng năm ấy; nhưng vị thần mà đồng bào Tày, Nùng cúng
bái ở đây không phải là thần nông mà là mẹ Trăng.
Theo
tín ngưỡng dân gian Tày, Nùng trên cung trăng có mẹ Trăng và mười hai nàng
tiên, những con gái của mẹ. Mẹ cùng bầy tiên hàng năm chăm lo bảo vệ mùa màng
cho dân. Hội Nàng Hai gồm những nghi lễ bài ca, cuộc vui để đón mẹ Trăng và các
cô tiên xuống thăm trần thế, thông cảm ước nguyện của người trần, nhận những lễ
vật tương trưng cho phong đăng, hòa cốc và sau đó người trần sẽ đưa tiễn mẹ
Trăng và các cô tiên về trời. Trước ngày vào hội, theo tục lệ trong bản chọn một
bà già phúc hậu, gia đình hạnh phúc, biết nhiều làn điệu dân ca đóng vai mẹ
Trăng và 10 cô gái trẻ đẹp, nết na, hát hay đóng vai các tiên nữ; mẹ Trăng dạy
cho các những bài hát truyền thống, những điệu lượn hai (lượn trăng) sẽ hát trong đêm hội. Khi chuẩn bị gần xong
dân bản chọn những thửa ruộng to ở gần làng hoặc trước sân đình để dựng rạp.
Trong rạp bày bàn thờ trang trí bằng hoa khảo
quảng và hoa bjóc - lồm; phía
trên bàn thờ treo một tấm vải lớn màu đỏ hoặc đen, ở giữa thêu hay vẽ hình mặt
trăng lưỡi liềm màu vàng hoặc trắng; tiếp theo bàn thờ là hai dãy bàn để đặt cỗ
và lễ vật do các gia đình đem đến cúng. Đây cũng là sân khấu dân gian, nơi diễn
ra cuộc gặp gỡ giữa dân bản với nàng Trăng.
Hình
thức diễn xướng cũng như nội dung của Hội Nàng Trăng đều thể hiện nghi thức
nông nghiệp. Hội được tiến hành dưới sự điều hành của một bà then có uy tín. Mở
đầu hội, bà then bước ra sân khấu trong bộ lễ phục màu đỏ làm lễ, mời mẹ mặt
Trăng xuống trần gian “nhập hồn” người đã chọn đóng làm mẹ Trăng.
Phần
chính của đêm hội là cuộc hát đối đáp giữa nàng Trăng và dân làng, cầu mong sự
bình yên, thịnh vượng của cải dư thừa đến với mọi nhà.
Kết
thúc lễ hội là hình ảnh mẹ Trăng tung những nắm bỏng lúa trắng xóa, tượng trưng
cho những hạt giống để lại cho người trần, tay mẹ Trăng tung bỏng, miệng đọc những
câu “phù chú” cầu chúc mọi sự tốt lành đến với mọi người trong bản. Mọi người
thi nhau nhặt những “hạt giống” trời ban cho để mang về làm khước[2].
Hội
cầu mưa cũng mang dáng dấp của lễ hội lồng tồng. Ngày hội thường được tổ chức
vào cuối tháng 3 đầu thàng 4 âm lịch. Dân làng tổ chức tế lễ ven sông với các
trò chơi chèo thuyền, đua thuyền giật giải cùng các trò bơi lội khác. Mục đích
của hội là cầu mưa, mong mùa màng bội thu, gia súc đầy đàn cuộc sống ấm no hạnh
phúc.
Hội
cúng rừng được tổ chức vào cuối tháng giêng đầu tháng hai âm lịch, nơi tổ chức
là khu rừng cấm ở đầu bản. Mỗi năm các làng tổ chức hội cúng rừng khoảng hai, ba ngày, người đại
diện gia đình đến dự hội phải là con trai. Dịp này mọi công việc sản xuất đều
ngừng lại. Ngày hội đầu tiên, người ta tổ chức lễ cúng tạ ơn, cầu xin “thổ địa”.
Người hành lễ là một cụ già có uy tín và biết các bài cúng. Khi cúng, tất cả
các thành viên nam giới của bản đều tập trung ngồi sau người hành lễ. Người chủ
lễ đọc tên từng thành viên của bản, báo cáo với thần những người đã chết hay
người mới sinh, những người mới lấy vợ, những người ở nơi khác nhập cư, người ở
bản đã chuyển đi, đồng thời thông báo với thần tình hình súc vật trong bản, những
khu vực trồng trọt của bản để thần biết mà trông nom bảo vệ. Sau đó các thành
viên của bản ở lại ngay nơi hành lễ để bàn những công việc chung của bản.
Theo
tục lệ, các gia đình ở thôn bản khác và đồng bào các dân tộc khác trong khu vực
cũng được phép dự hội miễn là phải tuân thủ các qui định của bản như: không được
thả rông gia súc, gia cầm phá hoại mùa màng người khác, không chặt phá cây rừng
bừa bãi… Những ngày sau là những ngày vui chơi, thi đấu trong nội bộ bản hay giữa
các bản với nhau.
1.2 Hội đền, hội chùa
Do
ảnh hưởng của văn hóa người Kinh (Việt) nên ở vùng người Tày, Nùng cũng có một
số ngôi chùa thờ Phật. Ngoài ra còn có nhiều đền miếu thờ các nhân vật anh hùng
của dân tộc như: Trần Hưng Đạo, Hai Bà Trưng, Đinh Tiên Hoàng, các vị sơn thần,
thủy thần… Đến với lễ hội này mọi người thành kính thắp hương, dâng lễ cầu xin
thần thánh, trời phật phù hộ độ trì, che chở cho gia đình một năm mới khỏe mạnh,
làm ăn phát đạt.
1.3 Hội tranh đầu pháo
Lễ
hội này có ở Cao Bằng, Lạng Sơn, nội dung mang tính thượng võ, đề cao sức khỏe
với trò chơi tranh đầu pháo, cầu phúc.
Lễ
hội có hai phần chính, phần tế lễ trời đất với bàn thờ phúc và phần hội với nhiều
trò vui: múa sư tử, đốt pháo, biểu diễn võ thuật. Trong đó, quan trọng nhất là
trò đốt pháo với tục tranh đầu pháo, còn gọi là tranh vòng phúc. Đầu pháo là một
chiếc vòng quấn vải điều đặt trên ngòi một chiếc pháo đùng để ở vị trí cao nhất
của một cây pháo lớn được làm từ nhiều tràng pháo dài quấn xung quanh. Khi cây
pháo nổ hết, chiếc vòng được tung lên cao, tốp thanh niên vây xung quanh, ai
nhanh tay cướp được sẽ mang đầu pháo chạy thật nhanh đến bàn thờ phúc lạy ba lạy
và được công nhận là người thắng cuộc [3].
1.4 Hội
hát Sli, hát Lượn
Hát
Sli, hát Lượn là lối hát đối đáp, hát giao duyên của trai gái Tày, Nùng thường
tổ chức vào mùa xuân và các phiên chợ. Vào những dịp đó, trai gái Tày, Nùng mặc
bộ y phục nhuộm chàm đẹp nhất của dân tộc mình để đi trảy hội. Trai làng này
thường thường đến hát Sli, Lượn với gái làng kia. Họ có thể hát suốt đêm, càng
hát càng say mê. Trong khi hau bên trai, gái thổ lộ tâm tình với nhau bằng lời
hát thì những người đến dự cũng say mê chẳng kém gì người trong cuộc. Với người
già, Sli, Lượn làm sống lại kỉ niệm đẹp đẽ của buổi thiếu thời; với tuổi trẻ
Sli, Lượn là lúc thi tài ứng đáp thể hiện tình yêu. Trong những ngày chợ phiên
trai gái Tày, Nùng túm năm, tụm ba hát với nhau, ban đầu để làm quen, tan buổi
chợ họ tiễn biệt nhau, hẹn gặp lại ở phiên chợ sau. Sau nhiều lần hát với nhau,
họ yêu nhau và thành vợ, thành chồng.
2.
Sắc
thái riêng trong lễ hội Tày, Nùng
2.1 Biểu
hiện tín ngưỡng sơ khai qua các hình thức lễ nghi và các trò chơi trong ngày hội
Quan
niệm vạn vật hữu linh là một biểu hiện của tín ngưỡng sơ khai không chỉ thấy ở
các tộc người thuộc ngôn ngữ Môn - Khơ me, Tạng - Miến, Hmông - Dao, Việt - Mường
mà còn thấy thể hiện khá rõ trong các lễ hội Tày - Nùng.
Trong
các lễ hội của người Tày, Nùng đều có chung quan niệm, cây lúa và con trâu đều
có hồn, vía giống như con người. Muốn cho lúa trổ bông, trâu bò khỏe mạnh thì
phải làm lễ cúng hồn, nếu không chẳng những năm đó mùa màng thất bát mà con người
cũng gặp nhiều trở ngại trong đời sống. Theo quan niệm của đồng bào, sau một
mùa lao động nặng nhọc, vất vả trâu, bò mệt mỏi nên bạt cả hồn vía; thu hoạch
mùa màng xong cần phải làm lễ thu lại hồn vía của trâu, bò đang lang bạt đâu đó
trên núi cao, rừng rậm trở về nhập lại để cho khỏe mạnh chuẩn bị một mùa vụ mới
phục vụ con người. Vì vậy, trong lễ hội lồng tồng ngoài các nghi thức chung bao
giờ cũng có nghi lễ cúng hồn lúa, gọi vía trâu, bò. Trong lễ cúng gọi vía trâu,
bò người Tày, Nùng thường có các bài cúng vía, luyện vía, kết đoàn vía… Sau đó
là các bài mừng trâu đực, mừng trâu cái, mừng nghé [4].
Trong
lễ hội Nàng Hai hiện tượng nhập hồn để mời nàng Hai là biểu hiện của sa man
giáo, tín ngưỡng phổ biến trong xã hội nguyên thủy.[5]
Tung
còn là trò chơi không thể thiếu được trong lễ hội lồng tồng. Trên bãi chơi, người ta dựng một cây mai dài khoảng 15 -
20 m gọi là phổng còn. Trên ngọn buộc
một vòng tròn dán giấy đỏ và vàng mỏng, mỗi mặt viết một chữ nho: mặt đỏ viết
chữ “nhật”, mặt vàng viết chữ “nguyệt” biểu hiện âm dương. Cây nêu (phổng còn) dựng theo hướng đông - tây vừa
mang tín ngưỡng cần ánh sáng, vừa mang tín ngưỡng phồn thực, vì đó là dấu hiệu
màng trinh nữ. Ngoài ra còn có quả cầu khâu bằng vải, trong nhồi thóc, ngoài
đính các tua vải nhiều màu làm đuôi còn. Lệ tục xưa, mỗi nhà khâu hai quả, cúng
thần nông xong thì đem ra hội chơi. Thanh niên nam nữ đứng riêng hai bên phổng còn, bắt đầu tung và ném còn cho
nhau. Ai ném quả còn làm thủng tâm sẽ thắng cuộc, trong năm gặp nhiều may mắn,
đồng thời dân làng cũng yên tâm vì như vậy bản làng sẽ được mùa. Năm nào còn
không ném thủng vòng giấy thì phải tổ chức thi lại vào rằm tháng giêng vì sợ mất
mùa. Theo tục lệ, quả còn nào ném trúng đích sẽ được mang về thờ tại đình. Ở một
số nơi người ta rạch quả còn trúng đích lấy hạt thóc, hạt bông ban phát cho mọi
người, với ý nghĩa là hạt giống của thần nông cho.
Kéo
co là trò chơi tổ chức theo làng hoặc theo xóm và chia thành hai phe ở các vị
trí đông, tây, nam, bắc. Vào cuộc, người ta chia thành hai phe đông - tây với ý
nghĩa âm dương (đông: nhật, tây: nguyệt). Lúc đầu là kéo lấy lệ cốt để bên đông
thắng liền 3 cuộc rồi cuộc chơi mới bắt đầu. Người ta cho rằng bên đông thắng tức
là mặt trời thắng thì làm ăn mới được mùa.
Múa
sư tử, là trò chơi phổ biến của hai dân tộc Tày, Nùng ở Việt Bắc. Tùy từng nơi
mà trò chơi này có từ một đến hàng chục con sư tử tham gia. Trò chơi múa sư tử
có liên quan đến tín ngưỡng cầu mưa được truyền tụng ở Văn Lãng (Lạng Sơn).
Chuyện kể rằng: có lần 12 năm liền không có mưa, trời hạn hán đâu đâu cũng thấy
cây cối khô héo, ếch nhái, chim muông và các thú rừng đều sống trong cảnh thoi
thóp chờ chết. Chính lúc ấy khỉ cùng báo đông rủ nhau đi tìm nước để cứu muôn
loài. Chúng đi mãi, hết ngày này qua ngày khác tới một cửa sông đổ ra biển, nước
mênh mông bốn bề chẳng thấy bờ đâu nữa. Khỉ và báo đông vô cùng sung sướng rủ
nhau xuống sông uống no nước. Ngày hôm sau khi mặt trời ló lên khỏi mặt nước,
khỉ và báo đông thấy một đàn vật to đẹp lạ thường đi từ biển lên. Tưởng là vật dữ,
nhưng ngó chúng có vẻ hiền lành, khỉ và báo đông tới gần true chúng cũng không
việc gì, liền vạch mồm chúng ra xem, thấy những hàm răng to. Đó là những con sư
tử. Báo đông và khỉ rủ sư tử về nơi ở của mình. Sư tử về tới nơi liền đi múa
chào tất cả các loài vật. Mọi con vật đang khát nước đều phấn chấn hẳn lên múa
theo. Thế là hội múa của sư tử và các loài vật diễn ra tưng bừng náo nhiệt vang
động cả núi rừng. Khi sư tử múa xong thì trời bỗng tối sầm lại, mây đen ùn ùn
kéo tới, sấm sét vang trời, rồi trời đổ mưa như trút nước. Chỉ trong chốc lát
nước đầy đồng ruộng, cây cối xanh tươi trở lại.
Kể
từ mùa xuân năm ấy, báo đông luôn tổ chức những ngày múa sư tử để mong mưa. Sau
này khi báo đông đã biến thành người vẫn nhớ tục lệ xưa. Hàng năm, mỗi khi tổ
chức hội xuân lại múa sư tử để cầu mưa. Ngày nay, khi tổ chức lễ hội nếu làng
nào không có đội múa thì đi mời đội múa sư tử ở nơi khác và có quy định rước sư
tử ở bên sông theo ý nghĩa của truyền thuyết để lại.
Một
số nơi ở Lạng Sơn, Tuyên Quang còn có trò sĩ nông, mục đích của nó là nhằm để
cao nghề nông qua việc kén chồng của một tiên nữ, rất nhiều người ở các ngành
nghề khác nhau đến cầu hôn nhưng cô lại chọn anh nông dân để làm chồng[6]. Trong lễ hội lồng tồng một
số vùng người Tày, Nùng ở các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng còn có trò
gieo giống má, người chủ hội rải hạt giống và nói đây là giống nếp, đây là giống
tẻ, giống ngô, giống đậu. Đọc xong một tên giống, người ta lại tung lên trời một
nắm tiền xu, mọi người tranh nhau vào nhặt
tiền xu. Họ tin rằng, ai nhặt được giống gì thì năm đó trồng thứ ấy sẽ tốt. Nhặt
được càng nhiều hạt sẽ cho là càng may.
Đặc
biệt trong hội xuống đồng của người Tày ở vùng ven sông Hồng, sông Chảy có trò
múa kiếm, múa mộc. Trong các động tác múa, đáng chú ý động tác đâm kiếm vào mộc.
Khi đâm, đỡ, tay cầm kiếm, mộc giơ thẳng nhưng thân người hơi ưỡn phía trước.
Phải chăng việc này gợi lại hình ảnh tính giao?
2.2 Tín
ngưỡng đa thần, tín ngưỡng thờ mẹ
Trong
tất cả các lễ hội của người Tày, Nùng việc đầu tiên là phải dâng lễ trình xin
phép mở hội đến các vị thần linh, thổ địa (Thần Đất, Thần Nước, Thần Mưa, Thần
Đá, Thần Núi, Thành Hoàng), là những thần bản mệnh của bản, của địa phương. Đây
là những vị thần được con người cho là hiện thân của sức mạnh tự nhiên có tác động
trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp và sức khỏe con người. Trong xã hội nông
nghiệp sơ khai, khi mà con người chưa lý giải được các hiện tượng tự nhiên thì
thần thánh trở thành niềm tin tuyệt đối.
Việc
lễ tế các thần trong các lễ hội phần lớn có các nghi thức giống nhau, theo các
bước: thắp hương, giới thiệu, trình lễ, khao ngựa, lên đường. Chẳng hạn hội lồng
tồng, hội Nàng Hai có điểm chung như sau:
Địa
điểm hội là một đám ruộng cao ráo sạch sẽ. Trên đám ruộng, thầy Tào cắm bùa chú
định vị 4 hướng đông, tây, nam, bắc nhằm mục đích trừ tà ma. Đồ lễ dân bản tự
giác chuẩn bị và thường mâm cúng các thần có thủ lợn hoặc gà luộc, xôi, rượu.
Người chủ trì việc cúng tế là ông trùm trưởng có uy tín trong bản được cử trông
nom đình thờ hoặc ông thầy mo có kinh nghiệm.
Nội
dung tế lễ, trước hết là trình báo để các vị thần linh biết và xin phép mở hội làng bằng thức âm dương, đồng thời tạ ơn các thần đã phù hộ cho một năm gieo trồng
thuận lợi, mưa thuận gió hòa.
Trong
hội Nàng Hai, sau khi thực hiện xong các nghi thức trình báo với các thần, người
ta tiến hành hàng loạt nghi lễ liên quan đến việc cầu phúc, cầu mùa. Trong lễ hội
này tín ngưỡng thờ mặt trời cũng xuất hiện thông qua lễ mời nàng Hai từ mường
trời về ban mùa màng và phúc lành cho dân bản. Ở một số nơi, lễ hội được kết hợp
với múa, hát. Lời hát miêu tả hành trình của đoàn người trần gian lên mường trời
cống hoa và cầu xin các mẹ Trăng ban phát hạt giống, con giống, triệt phá sâu bọ
cho con người.
Hội
cúng rừng của người Nùng bên cạnh việc tổ chức lễ cúng tạ ơn và cầu xin thần thổ
địa, đồng bào còn có mâm lễ cúng thần rừng gồm một con lợn, con gà trống, một
chai rượu. Khi cúng, thầy cúng phải khấn 3 bài cúng là: mời thần rừng, xin thần
rừng cứu giúp dân, mổ lợn, gà nạp lễ. Có tục cúng rừng, do tương truyền con người
tồn tại được là nhờ núi rừng, thời tiết thuận hòa, đất đai màu mỡ, cây cỏ hoa
lá xanh tươi. Cũng như con người, đất trời rừng núi có tổ tiên, linh hồn. Nó bảo
vệ, che chở cho thế giới thiên nhiên luôn tồn tại và phát triển. Vì vậy, cùng với
viêc thờ cúng gia tiên trong các ngày lễ Tết cổ truyền để đền đáp công ơn của tổ
tiên cũng phải cúng núi rừng, cầu thần rừng che chở cho gia súc, gia cầm sinh
sôi nảy nở, mùa màng luôn được phát triển tốt tươi không bị mưa gió vùi dập.
Rõ
ràng việc thờ đa thần là tàn dư của việc thờ cúng các vị thần bảo vệ cho công
xã nông nghiệp, giai đoạn xã hội chuyển biến từ nguyên thủy sang xã hội có giai
cấp.
Tín
ngưỡng thờ mẹ bắt nguồn từ truyền thống coi trọng mẹ sinh sản. Nữ thần trông
coi việc sinh sản tiếng Tày, Nùng gọi là mẹ Hoa (Mẻ Bjoóc). Theo quan niệm của đồng bào mẹ Hoa ở trên trời mới là mẹ
đẻ, còn mẹ ở trần gian chỉ là người thừa lệnh mẹ Hoa sinh ra con. Mẹ Hoa được
thờ cúng cùng với các nghi lễ gắn với thời kỳ sinh nở của phụ nữ. Từ truyền thống
đó, với tư duy nông nghiệp đề cao vai trò của phụ nữ mà gắn vai trò sinh sản với
mẹ nông nghiệp thông qua hình ảnh mẹ Trăng. Lễ hội Nàng Hai với tục thờ mẹ
Trăng có liên quan đến tục thờ mẹ nói trên. Tùy từng hình thức và nội dung cụ
thể mà vai trò của mẹ Trăng được thể hiện khác nhau. Có nơi mẹ Trăng được đồng
nghĩa với Pựt luông (Phật lớn), là mẹ
cai quản cung Quảng Hàn, trông coi mọi mặt trong đời sống con người. Có nơi mẹ
Trăng đồng nghĩa với mẹ Hoa bao gồm nhiều mẹ được gọi chung là mẹ Nàng Trăng (mẻ Nàng Hai), mỗi mẹ cai quản một mặt
trong sản xuất nông nghiệp ở mường trời, mường trăng với các tên gọi như: mẹ
Lan Ba, mẹ Khắc Cơ, mẹ Bích Vân, mẹ Mạ Mì, … Tục cúng hoa và lễ dâng hoa, khao
hoa trong hình thức lễ hội này phản ánh quan niệm mang hoa lên mường trời cống
mẹ Hoa của người Tày còn thấy trong Lượn Cọi [7]. Đôi nơi thờ Thành Hoàng
là những thần bản mệnh của bản, của địa phương.
2.3 Sự
phản ánh của các tín ngưỡng du nhập
Thờ
Phật là một trong các tôn giáo phổ biến ở người Việt có ảnh hưởng đến người
Tày, Nùng qua hệ thống chùa chiền. Hội
chùa ở các vùng này thường đơn giản với tục dâng hương lễ Phật. Giống
như người Việt, một số ngôi chùa của người Tày, Nùng trong bài trí cũng phản
ánh tín ngưỡng đa thần. Chùa Tiên đặt trong động núi đá Đại Tượng, xã Mai Pha,
Chi Lăng (Lạng Sơn). Chính giữa tác động là ngôi Tam Bảo thờ các Đức Phật tổ.
Cung bên phải, phía trên thờ Đức Thánh Trần (Trần Hưng Đạo), phía dưới là bệ thờ
Phạm Công (Phạm Ngũ Lão), gần cửa chính thờ
các đức Phật Thánh Mẫu. Cung bên trái thờ các linh hồn đức Phật qui
vong. Hàng năm chùa Tiên có 8 kỳ lễ chính trùng với các ngày lễ tiết ở miền
xuôi.
Chùa
Mẫu Sơn, tên thường gọi là chùa Trung Thiện ở xã Tú Đoạn, huyện Lộc Bình là một
ngôi chùa thờ Trời và Phật. Chùa làm ở chân núi Mẫu Sơn (núi mẹ). Núi có hai đỉnh:
Đỉnh dương và đỉnh âm, gọi là ông dương bà âm, âm dương hòa hợp thì trời quang
mây tạnh, đất mang vẻ đẹp. Hàng năm hội chùa vào 14 và 15 tháng giêng âm lịch với
nhiều trò vui, đặc biệt có trò đoán định thời tiết. Như vậy, lễ hội ở đây phản
ánh sự hòa nhập giữa tín ngưỡng nông nghiệp (thờ trời đất, âm dương) với tín
ngưỡng thờ Phật. Ngoài ra, ở vùng người Tày cũng dựng các đình làng với hình thức
đơn giản chủ yếu dùng làm nơi tế tự thần nông trong ngày hội lồng tồng tháng
giêng. Tuy nhiên, một số nơi đình được xây dựng khá công phu, bài trí trong
đình giống như ở miền xuôi. Ngày hội đình làng được tổ chức vào tháng 4 âm lịch
với các hình thức sinh hoạt giống như ở miền xuôi. Người ta tổ chức đàn hát pha
trộn giữa tiếng Việt và tiếng Tày, có tổ chức cúng tế ăn uống ngay tại đình.
2.4
Tính dân chủ, bình đẳng qua lễ hội
Tày, Nùng
Một
trong những đặc trưng nổi bật của lễ hội Tày, Nùng là tính dân chủ, bình đẳng.
Đến dự hội bất kể là giàu, nghèo, sang, hèn mọi người cùng tắm mình trong không
khí hội; tất cả mọi người đều có thể tham gia vào các trò chơi, diễn xướng, thi
tài với nhau. Ngay cả trong ăn uống ở các lễ hội cũng mang tính cộng cảm, bình
đẳng. Trong khi ăn, người ta ngồi quây quần theo lứa tuổi, giới tính không phân
biệt địa vị chức tước. Trong một số lễ hội, người ta còn bàn bạc xây dựng qui ước
cộng đồng (lễ cúng rừng của người Nùng). Lúc đó những người đến tham dự đều được
tự do bàn bạc, đóng góp ý kiến.
3. Một vài nhận xét
-
Căn cứ vào qui mô của hội, có thể chia lễ hội truyền thống của người Tày, Nùng
thành hai loại: hội làng và hội liên làng. Trước hết là hội làng, đây là lễ hội
phổ biến, diễn ra trong phạm vi một làng như hội cúng rừng, hội chùa, đền, hội
mang tính thượng võ. Hội liên làng có khi trở thành hội của một vùng như hội lồng
tồng, hội nàng Trăng, hội Sli.
-
Lễ hội Tày, Nùng là một hình thức sinh hoạt tín ngưỡng, mang đậm dấu ấn của cư
dân nông nghiệp, thể hiện qua tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng cầu mưa, tín ngưỡng
thờ mặt trời, phải chăng là những biểu hiện của sự tìm về của cội nguồn cộng đồng.
-
Lễ hội được tổ chức tập trung chính vào mùa xuân, số lễ hội tổ chức vào mùa thu
rất ít. Như vậy, có thể thấy yếu tố mùa vụ qua việc tổ chức lễ hội; điều đó góp
phần cho thấy việc cầu mùa và canh tác lúa nước hai vụ xuân- thu khá rõ, trong
đó canh tác lúa xuân (chiêm) là chủ yếu.
-
Lễ hội của người Tày, Nùng cũng có sự ảnh hưởng của người Việt, đó là hàng loạt
các lễ hội chùa, đền ở khắp các vùng Việt Bắc từ Lạng Sơn đến Cao Bằng, Tuyên
Quang.
-
Ngày nay, nhiều giá trị của lễ hội truyền thống của hai dân tộc Tày, Nùng còn
đáp ứng được những nhu cầu cơ bản của con người, xã hội hiện đại. Rất tiếc là,
trong một thời gian dài do nhiều lý do khác nhau mà một số lễ hội truyền thống
của hai dân tộc này không được tổ chức và có nguy cơ bị mai một. Vì vậy, việc
phục hồi các lễ hội truyền thống của hai dân tộc Tày. Nùng một số năm gần đây
chẳng những đáp ứng được nhu cầu tinh thần của người dân mà còn phù hợp với công
cuộc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiến bộ, mang đậm bản sắc dân
tộcq
[1] Ngô Đức Thịnh, “Những giá trị của lễ hội cổ truyền trong đời sống xã hội”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật số 3, 2001, tr.7.
[2] Trần Quốc Vượng,
Dương Tất Từ, Lê Văn Hảo, Mùa xuân và
phong tục Việt Nam, Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1976.
[3] Nguyễn Thị Yên, “Tìm
hiểu yếu tố tín ngưỡng trong lễ hội của người Tày, Nùng”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 1, 1998, tr.3
[4] Lê Trung Vũ, “Hội
lồng tồng của người Tày”, Tạp chí Dân tộc
& Thời đại, số 34, 2001.
[5] Nguyễn Thị Yên, “Tìm
hiểu yếu tố tín ngưỡng trong lễ hội của người Tày, Nùng”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 1, 1998, tr.7.
[6] Nhiều tác giả, Các dân tộc Tày, Nùng ở Việt Nam, Viện
Dân tộc học, Hà Nội 1992.
[7] Nguyễn Thị Yên, “Tìm
hiểu yếu tố tín ngưỡng trong lễ hội của người Tày, Nùng”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 1,1998, tr.8
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.