Thứ Tư, 2 tháng 9, 2020

TRUYỀN THỐNG HIẾU HỌC Ở MỘT SỐ VÙNG QUÊ THÁI BÌNH*

 


          

Xưa nay, truyền thống hiếu học vẫn luôn là niềm tự hào của người Việt. Một trong những biểu hiện cụ thể của truyền thống đó là thái độ trọng thị, tôn vinh những người học hành đỗ đạt và sự phấn đấu không ngừng của nhiều cá nhân trong quá trình chinh phục các đỉnh cao tri thức. Quốc Tử Giám - trường đại học đầu tiên của Việt Nam từ lâu đã trở thành nơi vinh danh các vị khoa cử thành danh trong lịch sử khoa bảng. Người có học vấn cũng được đặt ở vị trí đầu tiên trong thang bậc nghề nghiệp xã hội: sĩ - nông - công - thương. Theo GS Trần Văn Giàu, “Sĩ bao gồm những người có học hoặc đã thi đỗ hoặc không thi đỗ, hoặc làm quan làm thầy hoặc không làm quan làm thầy mà ở ẩn ở thôn quê. Sĩ là những người được đào tạo theo đạo thánh hiền, là trí tuệ của xã hội, là quân tử. Đường kẻ sĩ lại là đường danh vọng sang giàu được người ta mơ ước, cho nên, sĩ đứng đầu tứ dân, được nhân dân kính trọng nhất trong số tứ dân”[1]. Kẻ sĩ ngoài gắn với học hành, còn bao hàm cả nhân cách, lối hành xử. Trong lịch sử, kẻ sĩ “Trị diệc tiến, loạn diệc thoái” là hiện tượng phổ biến. Tức là khi đất nước thịnh trị, khi có “vua sáng” thì tích cực ra giúp đời, còn khi đất nước rối ren, loạn lạc, khi “vua tối”, thì lui về ở ẩn để “độc thiện kỳ thân”, để giữ yên thân mình[2].

Cùng với việc đề cao giới "sĩ", các bậc tiên nho xưa cũng đặt ra tiêu chí ứng xử cho tầng lớp này - như một biểu tượng tinh thần tiêu biểu cho lí tưởng xã hội phong kiến: "Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc" (Lo trước nỗi lo của thiên hạ, vui sau điều vui cả thiên hạ). Ngày nay, tầng lớp trí thức vẫn đóng vai trò hết sức quan trọng trong mọi lĩnh vực. Ở đây, chúng tôi bàn thêm về sĩ – kẻ sĩ, vai trò của tầng lớp “sĩ” trong xã hội, cũng không nằm ngoài mục đích tôn vinh truyền thống học tập của dân tộc. Gắn với đặc thù của từng thời đại, sự biểu hiện của truyền thống đó càng thêm phong phú.

                  1. Truyền thống hiếu học ở Thái Bình thời phong kiến

Ở các làng quê Việt Nam, từ bao đời nay, truyền thống hiếu học vẫn được các thế hệ duy trì và phát huy. Thái Bình vào thời Lý - Trần - Hồ (thế kỉ X đến đầu thế kỉ XIV) không có nhiều gương mặt trí thức đỗ đại khoa, do đây là vùng đất được hình thành muộn, lại thiếu vắng các đô thị trung tâm. Nhưng từ thời Lê sơ (thế kỉ XV) trở đi, “học phong ở Thái Bình đã thành mệnh mạch nổi trội hơn nhiều địa phương khác”, điều này được thể hiện qua con số 115 trí thức đỗ từ phó bảng đến trạng nguyên trong tổng số tri thức đại khoa Việt Nam. Sang thời Nguyễn, ngoài 15 người đỗ đại khoa, Thái Bình còn có gần 200 người đỗ cử nhân. Ở hầu hết các huyện của Thái Bình đều có văn từ, văn chỉ; phần lớn làng xã có văn chỉ và bia đá ghi chép về việc học hành[3].

Khảo sát hương ước cổ của các làng xã ở Thái Bình cho thấy có nhiều bản có quy định về việc học, trong đó, cách thức khuyến khích thường thấy nhất là dành ruộng học điền để chăm lo sự học. “Những người đến tuổi thành niên vẫn theo đuổi học hành thì đuợc miễn phu phen tạp dịch. Nhiều làng có hình thức trợ cấp giấy bút để giúp con em nhà nghèo theo học và hình thức phổ biến là xếp ngôi thứ cao trong vị thứ đình trung đối với người đỗ đạt, khen thưởng đối với người có công nuôi dưỡng…”. Cùng đó, mỗi làng đều có cách quy định riêng phù hợp với điều kiện địa phương nhằm thúc đẩy và duy trì sự hưng thịnh của học phong[4].

Nhìn chung, “các làng xã ở nông thôn Thái Bình trước Cách mạng tháng Tám - 1945 rất trọng tri thức, tôn trọng người có học và khuyến học bằng nhiều hình thức khác nhau..”, “ở nhiều làng, việc học được cả dân làng quan tâm, thể hiện tính xã hội hóa trong giáo dục như mở trường, mời thầy, dành tiền công trợ giúp con em nghèo học tập, thưởng tiền với người đỗ đạt”. “Hầu hết các hương ước đều khuyến học theo tinh thần học để mở mang sự hiểu biết để cho làng văn minh tiến bộ…”[5]. Dưới đây là trích dẫn một số quy định trong hương ước của các làng xưa ở Thái Bình:

Hương ước làng Ô Trình, tổng An Định, huyện Thụy Anh, tỉnh Thái Bình.

Việc học chính:

Điều 61: Nhân bất học bất tri lý, nên người ta phải có học thì trí khôn mới mở mang, tinh thần mới được linh sang rồi sau trở nên người tử tế. Làng ta sở tại trường sơ đẳng con trẻ đi học rất là thuận tiện. Vậy trong làng ai có con bé lên bảy tuổi đều phải cho đi học ít ra cũng phải đỗ bằng sơ học yếu lược trở lên, người nào còn có thể đi học được mà không cho đi học thì phạt vào phụ huynh 5 hào và kỳ lý hương hội cứ mỗi năm 2 kỳ xét sổ học sinh trong làng được bao nhiêu ghi vào sổ riêng, nếu người nào đã theo học được 5 năm mà không đỗ được bằng sơ học yếu lược thì dân cũng cho ngôi xã tự, xã chính gọi là nhiêu học còn người theo học lên các lớp trên thì dân miễn cho các phu đòi tạp dịch.[6]

Hương ước làng Phương Xá, tổng Phương Quan, huyện Đông Quan, Thái Bình:

Sự giáo dục:

Điều 135: Khi hội đồng mở trường ở làng, thì tiền phí tổn về nhà trường, làng sẽ lấy tiền công mà chi.

Điều 136: Làng đã có trường học thì trẻ con trong làng đều được vào học, không kể con đàn anh hay đàn em nhưng giấy bút và sách học phải mua lấy.

Điều 137: Lương thầy giáo mỗi năm bao nhiêu thì làng phải chịu.

Điều 138: Mỗi năm cứ đến 15 tháng Giêng thì hội đồng thi tiến ích cho học trò, sẽ lấy tiền công mà ban phần thưởng.

Điều 139: Làng lấy tiền công mua sách bút để phát cho con nhà nghèo, mà hội đồng xét thực không thể mua được.

Điều 140: Trong làng, trẻ con, trừ những người đi học, còn thì phải báo cho làng biết đàng ăn ở và phải tìm nghề nghiệp cho nó làm ăn.[7]

Những quy định về việc học cùng các hình thức khuyến học được nói đến trong các bản hương ước của các làng xã Thái Bình trước Cách mạng tháng Tám một mặt phản ánh thái độ trọng thị tri thức, tinh thần hiếu học của nhân dân thời đó; mặt khác, có những ứng xử hết sức nghiêm khắc trước các hành vi làm cản trở, ảnh hưởng đến việc học hành của con em, và đòi hỏi mỗi cá nhân, từ trẻ nhỏ đến người lớn đều phải có trách nhiệm, tinh thần cầu thị đối với việc rèn luyện, học tập để lập thân.

Những quy định này cũng tạo cơ sở cho việc xây dựng các hương ước từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay, và là nguồn tư liệu quan trọng để phục vụ cho công cuộc xây dựng Nông thôn mới ở Thái Bình trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

                  2. Phát huy truyền thống hiếu học trong thời đại mới

Xã Nguyên Xá, huyện Đông Hưng cũng là một trong những vùng quê có tinh thần hiếu học, dù không phải là địa phương có nhiều nhà khoa bảng nổi danh. Từ xưa, trong dân gian đã truyền tụng câu “chơi với Nguyên Xá rất khó”, hàm ý người Nguyên Xá văn hay chữ tốt, giỏi kiện tụng. Ngày nay, trong mỗi gia đình Nguyên Xá, việc học tập của con em đều đặc biệt được đề cao. Truyền thống hiếu học trong cộng đồng đã lan rộng và được cụ thể hóa thành phong trào khuyến học trong từng gia đình, dòng họ tại địa phương.

Làng Nguyễn xưa kia (tức thôn Trần Phú, xã Nguyên Xá, huyện Đông Hưng) đã có ông Nghè Bá Dương. Theo truyện kể lại, ông Bá Dương vốn thuộc dòng họ nhỏ, nhà nghèo, không có vai vế trong làng, nên khi về làng, không được đón tiếp long trọng. Phẫn uất, ông ném bút nghiên xuống ao, quay trở lại đất Hà thành. Có lẽ hai câu thơ sau xuất phát từ câu chuyện này:

Bao giờ nghiên nổi bút chìm

Thì người làng Nguyễn mới tìm ra quan.

Hoạt động bình thơ văn của các cụ già làng Nguyễn xưa kia cũng khá sôi nổi. Ở làng còn có bia văn chỉ lưu danh những người đỗ đạt, nhưng do chiến tranh, bia văn chỉ nay chỉ còn lại một phần nhỏ.

Trước đây, do đời sống nghèo đói, lại gặp hoàn cảnh chiến tranh liên miên, nên nhiều người làng Nguyễn thất học, mù chữ; những người được học chữ chủ yếu là chữ Nho “Cả xã thời kì này chỉ có một người có bằng “bán tú tài Tây”, tương đương lớp 10 phổ thông ngày nay, dăm người có bằng trung học và cao đẳng tiểu học… Mãi đến năm 1927-1928, Nguyên Xá mới có một lớp do Tổng sư dạy”[8]. Sau Cách mạng tháng Tám thành công, tình trạng này mới được cải thiện.

Hiện nay, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, mọi gia đình đều đầu tư cho con cái học hành. Bởi thực tế cho thấy, con đường học hành có thể đem lại cơ hội công việc tốt, giúp thoát ly nghèo đói. Đó cũng là lí do thôi thúc phong trào học tập trong nhà trường, trong làng xã.

Ở Đông Hưng khoảng 10 năm lại nay, các xã và hầu hết các họ đều có quỹ/ hội khuyến học. Phong trào khuyến học ở Nguyên Xá hiện đang phát triển tích cực.

Theo thống kê, đến nay toàn xã có 10 dòng họ lập quỹ khuyến học và hoạt động hết sức hiệu quả, như họ Nguyễn Công, Nguyễn Huy, Nguyễn Như, Nguyễn Đình, Nguyễn Hữu, Nguyễn Tiến, Nguyễn Xuân, Vũ Văn, Vũ Ngọc… Một vài dòng họ có quỹ khuyến học quy mô lớn như họ Nguyễn Huy (trên 20 triệu), Nguyễn Xuân (17 triệu).

Năm 2001, quỹ khuyến học của xã được thành lập, hiện nay quỹ đã lên tới con số 200 triệu, chủ yếu do các con cháu làng Nguyễn làm ăn ở xa đóng góp. Tháng 8 hằng năm được coi là tháng khuyến học của địa phương, vì thời điểm này, các họ và các thôn đều tổ chức trao phần thưởng cho những học sinh có thành tích học tập tốt trong năm, kịp thời động viên các cháu tiếp tục phấn đấu trong năm học mới.

Sự phối hợp hoạt động giữa các dòng họ và chính quyền cũng khá tốt. Xã trao thưởng cho các đối tượng là học sinh nghèo, học sinh có thành tích đặc biệt (như đạt giải học sinh giỏi quốc gia…). Còn thôn và dòng họ trao thưởng cho học sinh tiên tiến, học sinh giỏi, và cả các cháu mẫu giáo chăm ngoan.

Thông thường thôn tổ chức tuyên dương khen thưởng các cháu học sinh tại nhà văn hóa, còn các dòng họ trao phần thưởng tại từ đường của dòng họ với hình thức tổ chức rất trang trọng, có tuyên bố lí do, dâng hương lễ tổ tiên và khen thưởng. Đây là hoạt động rất có ý nghĩa, không chỉ khen thưởng, động viên kịp thời các cháu học sinh mà còn giáo dục sâu sắc lòng tri ân đối với tiên tổ và niềm tự hào về truyền thống gia đình, dòng họ. Với hoạt động này, họ mạc trở thành mái nhà chung, chăm lo cho các cá nhân, đặc biệt là thế hệ con cháu. Và theo người dân nơi đây, một dòng họ được coi là mạnh khi dòng họ đó có nhiều người đỗ đạt. Gia đình nào có người thành danh bằng con đường học hành đều được xóm làng coi trọng, vì nể.

Việc tổ chức tuyên dương tại từ đường dòng họ không chỉ cho thấy sự quan tâm đối với việc giáo dục văn hóa cho các cháu mà còn có ý nghĩa tích cực trong giáo dục bình đẳng giới. Sở dĩ như vậy là vì trước kia, xuất phát từ thái độ trọng nam khinh nữ, con gái, phụ nữ không được đến từ đường – nơi được quan niệm là thiêng liêng nhất của dòng họ. Nhưng với hoạt động của quỹ khuyến học, học sinh nữ có thành tích học tập tốt được chính trưởng họ trang trọng mời vào từ đường.

Hình thức góp quỹ khuyến học cho dòng họ cũng khá đa dạng. Thông thường vào dịp lễ xuân đầu năm, khi con cháu xa gần họp mặt tại từ đường, trưởng họ sẽ kêu gọi các cá nhân, gia đình đóng góp cho quỹ khuyến học. Bên cạnh đó, mỗi họ đều có cách làm riêng nhằm duy trì quỹ khuyến học, chẳng hạn dòng họ Nguyễn Như yêu cầu mỗi gia đình tiết kiệm 1000 đ/1 tháng. Dịp đầu năm, khi thu tiền tế xuân sẽ kết hợp thu luôn tiền khuyến học của năm (12 ngàn đồng). Còn họ Nguyễn Công, mỗi hộ đóng góp 20 ngàn đồng trở lên/1 năm cho quỹ khuyến học.

Tại thôn Hồng Phong - xã Nguyên Xá, vào tối 29 tết hằng năm, Ban công tác mặt trận cấp ủy chính quyền mời toàn bộ con em địa phương đi làm ăn xa về ăn tết đến nhà văn hóa thôn. Tại đây, ban công tác mặt trận kêu gọi các cá nhân ủng hộ khuyến học, khuyến tài và nhận đỡ đầu cho các con em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.

Đây là những cách làm hết sức hiệu quả, không chỉ khuyến khích tinh thần học tập của con em mà còn góp phần nâng cao nhận thức của người dân đối với giáo dục.

Học hành là một trong những câu chuyện được nói đến nhiều nhất trong các thôn xóm Nguyên Xá. Các bậc phụ huynh đều quan tâm đến việc học hành thi cử của con cái. Nhiều gia đình cho rằng, sự thành công của con cái là món quà quan trọng nhất, có giá trị lớn hơn cả tiền bạc. Đó là động lực rất lớn tác động đến phong trào khuyến học của địa phương.

Bên cạnh gia đình, dòng họ, đảng ủy, chính quyền địa phương cũng hết sức quan tâm đến phong trào học tập. Theo số liệu thống kê của phòng giáo dục, hiện nay trên địa bàn xã Nguyên Xá hầu như không có học sinh bỏ học. Hội khuyến học xã sẽ liên hệ, hợp tác với nhà trường, để giúp đỡ các học sinh nghèo (tặng đồng phục, sách vở). Vì vậy trong nhiều năm liền, rất nhiều học sinh nghèo đã vượt qua khó khăn để hoàn thành công việc học tập với sự hỗ trợ tích cực của các quỹ khuyến học.

Ngoài ra, hằng năm Đoàn thanh niên thôn, xã đều tổ chức các hoạt động ngoại khóa nhằm thu hút thanh thiếu niên tham gia các phong trào văn hóa tích cực, lành mạnh, hạn chế tệ nạn xã hội.

Nhìn chung, quá trình xã hội hóa giáo dục diễn ra khá thuận lợi tại Nguyên Xá với sự tham gia, ủng hộ của mọi thành viên, mọi gia đình, dòng họ. Bên cạnh sự giáo dục của nhà trường, sự quan tâm của chính quyền địa phương, đa số người dân đều cho rằng, truyền thống gia đình, dòng họ luôn đóng vai trò hết sức quan trọng trong giáo dục. Dù xã hội có những biến động, chao đảo thì giáo dục gia đình vẫn là nền tảng quan trọng nhất, góp phần hình thành, định hướng và hoàn thiện nhân cách của mỗi cá nhân.

Tại thôn Văn Hanh - xã Lê Lợi, huyện Kiến Xương, phong trào khuyến tài, khuyến học cũng phát triển rất mạnh mẽ. Trong nhiều năm liền, Văn Hanh được công nhận là thôn văn hóa, một trong các tiêu chí của thôn văn hóa đó là duy trì được truyền thống hiếu học và phát huy rộng rãi đến từng gia đình, dòng họ, khu dân cư.

Năm 2002, Ban chấp hành khuyến học của xã Lê Lợi được thành lập với 11 thành viên. Phong trào khuyến học của địa phương từ đây cũng đi vào nề nếp, tổ chức. Tại các thôn cũng thành lập chi hội khuyến học thôn (3-5 người), do Bí thư chi bộ làm chi hội trưởng. Hoạt động của các chi hội khuyến học rất tích cực và hiệu quả. Trước hết, hội mở lớp tập huấn về phong trào khuyến học, vận động hội viên tham gia và tích cực tuyên truyền các nội dung, tiêu chí khuyến học. Hiện nay xã Lê Lợi đã có 2.040 hội viên khuyến học.

Vào đầu năm, các gia đình, dòng họ sẽ đăng kí các danh hiệu: gia đình hiếu học, dòng họ hiếu học, khu dân cư hiếu học. Đến cuối năm, hội sẽ căn cứ vào tiêu chí đã đề ra để làm báo cáo tổng hợp rồi đưa ra bình xét.

Hình thức đóng góp cho hội khá linh hoạt. Thông thường hội kêu gọi các thành viên tại địa phương cùng những người đi học tập làm ăn xa đóng góp. Quỹ khuyến học của thôn thường thu theo diện tích sào ruộng của từng hộ; còn các dòng họ thường đóng góp theo mức 20-30n/ 1 hộ /1 năm. Thậm chí có gia đình ở thôn Văn Hanh còn lập quỹ khen thưởng riêng.

Hoạt động khen thưởng của hội khuyến học thôn, xã được tổ chức vào hai dịp: ngày hội truyền thống của làng (15/7 Âm lịch) và ngày hội đại đoàn kết toàn dân. Còn các dòng họ tổ chức vào ngày giỗ tổ.

Hằng năm, hội khuyến học thôn Văn Hanh - xã Lê Lợi đều tổng kết về hoạt động khuyến học, thống kê số con em trên địa bàn đỗ cấp 3, vào cao đẳng, đại học và đạt các thành tích xuất sắc trong học tập, rèn luyện.

Lê Lợi là một trong 8 xã của Thái Bình được chọn làm thí điểm xây dựng Nông thôn mới (năm 2011), sự phát triển rộng rãi của hoạt động khuyến học tại đây sẽ góp phần quan trọng vào thắng lợi của chương trình xây dựng Nông thôn mới.

Tại thôn Quang Lang Đông, xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy, hội khuyến học được thành lập năm 2010, hoạt động trên cơ sở nguồn kinh phí do nhân dân đóng góp. Hằng năm, gần đến dịp tựu trường, hội tổ chức tuyên dương, khen thưởng các cháu có thành tích học tập tốt căn cứ vào danh sách do nhà trường cung cấp. Ở quy mô cấp xã, vào mỗi đợt tổ chức trao phần thưởng cho các cháu đều mời đại diện các dòng họ đến dự để nghe báo cáo tổng kết. Do vậy, các dòng họ đều nắm được tình hình hoạt động của hội khuyến học và có thêm nhiều kinh nghiệm trong việc hỗ trợ con em học tập, phấn đấu.

Hầu hết các dòng họ ở thôn Quang Lang Đông đều có quỹ khuyến học, tiêu biểu có họ Tạ Bá, Tạ Ngọc, Tạ Duy, Trần Đình, Nguyễn Khuông.

Trong báo cáo tổng kết hằng năm của Ban công tác mặt trận xã đều có phần tổng kết, đánh giá các dòng họ có nhiều cố gắng và đạt nhiều kết quả trong công tác khuyến học.

Với các làng quê ở Thái Bình, hiện nay, dòng họ vẫn giữ tiếng nói vô cùng quan trọng, do vậy, việc khai thác thế mạnh của từng dòng họ để phục vụ cho công cuộc xây dựng Nông thôn mới là hết sức hợp lí, khả thi. Bởi thực tế cho thấy, gia đình, dòng họ đã có tác động rất lớn, mang tính quyết định đối với hoạt động giáo dục. Thậm chí, để phát triển hoạt động khuyến tài, khuyến học, trước hết và bắt buộc phải lấy dòng họ làm cốt lõi, đó là gốc của hiếu nghĩa, là trường học giáo dục lí tưởng, nhân cách, tình cảm đối với con em. Trên cơ sở khuyến khích các gia đình, dòng họ tiếp tục phát huy truyền thống hiếu học, sẽ góp phần thúc đẩy phong trào khuyến học của địa phương, từng bước nâng cao dân trí và cải thiện đời sống văn hóa - xã hội.

Trên đây chỉ là những nét sơ lược phản ánh phần nào học phong đất Thái Bình thời đổi mới, cho thấy truyền thống hiếu học vẫn được tiếp nối và hiện diện ở nhiều hình thức khác nhau.

* *

Ở thời đại nào, người có học vấn đều phải đảm đương những trách nhiệm lớn lao “phò vua giúp nước”, đóng góp cho sự phát triển của xã hội. Ngày nay, ý nghĩa của kẻ sĩ, của trí thức vẫn không tách rời trí tuệ, phát kiến sáng tạo, và nhận thức tổng quát[9]. Hơn thế họ còn phải gìn giữ và phát huy truyền thống hiếu học của cha ông họ, hướng tới xây dựng một xã hội tri thức bản lĩnh và giàu sức sáng tạo. Đó cũng chính là yêu cầu đặt ra đối với các thế hệ trẻ đã và đang làm rạng danh truyền thống văn hóa trên các làng quê Thái Bình.

 



*Tạp chí Văn hóa học, số 5 (9), 2013. Viết chung với Lê Thùy Dương.

[1] Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỉ XIX đến Cách mạng tháng Tám, tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, 1996, tr.40.

[2] Âm nhạc nhân gian và lời can của kẻ sĩ, http://boxitvn.wordpress.com.

[3]Nguyễn Thanh biên soạn, Hương ước Thái Bình, Nxb.Văn hóa dân tộc, Hà nội, 2000, tr. 79 - 80.

[4] Nguyễn Thanh biên soạn, Hương ước Thái Bình, Sđd, tr. 81-82,85.

[5] Nguyễn Thanh biên soạn, Hương ước Thái Bình, Sđd, tr. 93.

[6] Nguyễn Thanh biên soạn, Hương ước Thái Bình, Sđd, tr.109-110.

[7] Nguyễn Thanh biên soạn, Hương ước Thái Bình, Sđd, tr.127 - 128.

[8] Diệp Đình Hoa, “Làng Nguyễn, trong sách: Tìm hiểu làng Việt, tập 2, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994, tr. 225.

[9] Võ Hưng Thanh, http:www.danchimviet.info.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.