Thứ Sáu, 28 tháng 5, 2021

LỄ CƯỚI CỦA NGƯỜI DAO ĐỎ Ở XÃ QUẢNG BẠCH, HUYỆN CHỢ ĐỒN, TỈNH BẮC CẠN - Nguyễn Ngọc Thanh, Thông báo Văn hóa Dân gian 2002.

 

Người Dao Đỏ là một trong những nhóm địa phương của dân tộc Dao ở Việt Nam. Họ có mặt ở các địa phương như: Hà Giang, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Cao Bằng, Lào Cai…, và sinh sống ở ba vùng cảnh quan (vùng cao, vùng giữa và vùng thấp), nhưng chủ yếu là vùng giữa.  Người Dao Đỏ ở ba vùng nói trên đến nay còn bảo lưu nhiều yếu tố văn hóa truyền thống, đặc biệt là các nghi lễ trong chu kỳ đời người. Tuy nhiên, các nghi lễ này ở mỗi địa phương bên cạnh những nét chung, lại có những nét khác biệt tạo nên sắc thái riêng về văn hóa của mỗi nhóm Dao. Dưới đây, chúng tôi xin giới thiệu vài tư liệu về nghi lễ cưới xin của nhóm Dao Đỏ ở Quảng Bạch, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Cạn, với mong muốn góp thêm một sắc thái địa phương trong kho tàng văn hóa Dao nói chung.

Theo tập quán của người Dao Đỏ, trai, gái đến tuổi 18 là được tự do lựa chọn người bạn đời của mình. Họ thường tìm hiểu qua các buổi chợ phiên, vào ngày lễ của dân tộc, khi lao động sản xuất, cũng có khi các chàng trai, thiếu nữ làng Dao này đến các làng Dao khác để tìm người bạn đời của mình. Khi đôi trai gái đã có tình ý với nhau, chàng trai tặng cô gái nhà gái, đồng thời nhà gái cũng nói rõ nhà trai phải có thịt lợn gọi là xình nha ó cho những người đưa dâu nhà gái, cụ thể như sau:

-          Bố mẹ cô gái: 24 kg.

-          Cậu em mẹ: 6 kg.

-          Chú em bố: 6 kg.

-          Cô em bố: 4 kg.

-          Dì em mẹ: 4 kg.

-          Bác anh bố: 5 kg.

-          Anh trai cả: 4 kg.

-          Chị gái: 4 kg.

-          Thầy cúng: 6 kg.

Ngoài ra, đoàn đưa dâu mỗi người được nhà trai biếu 1 kg thịt, riêng phù dâu được 1,8kg thịt. Theo nhiều người già kể lại, trước đây lễ vật gấp 3 lần, hiện nay đã giảm đi nhiều. Sở dĩ, không bỏ được vì theo quan niệm của người Dao Đỏ con gái đến tuổi lấy chồng, bố mẹ có quyền được thách cưới.

Những khoản lễ vật này được nhà gái ghi thành văn bản trao lại cho nhà trai. Nếu đồng ý nhà tải về lo sắm sửa để tổ chức đám cưới. Theo tục lệ, nhà trai không có bạc  trắng hoặc tiền mặt thì sau khi hai vợ chồng trẻ sinh đứa con thứ hai sẽ được đổi sang họ mẹ, và sau khi lớn lên xây dựng gia đình nếu ông bà ngoại qua đời chúng sẽ chịu trách nhiệm thờ cúng. Cũng theo tục lệ, ngày hôm đó tại nhà gái nếu nghe thấy tiếng hươu, cú mèo kêu thì công việc chuẩn bị cho đám cưới bị hủy bỏ. Theo quan niệm của người Dao Đỏ đó là điềm xấu, cưới nhau sẽ có người bị tại nạn.

Sau lễ nhìa tịnh, nhà trai về xem ngày, được ngày mùi miền (đại diện nhà trai) chủ động sang báo tin cho nhà gái biết về ngày tổ chức lễ cưới.

Pện tiu (lễ cưới)

Trước ngày cưới đã chọn, nhà trai cử người mang đủ số lễ vật sang giao cho nhà gái, nếu đường xa những người này sẽ ngủ lại, ở gần thì họ quay về ngay. Tại nhà trai, gia đình mời một người nam giới làm xình xui (chủ hôn), ông ta phải là người biết cúng, nói năng trôi chảy, biết ghi văn bản cam kết hôn nhân, gia đình hòa thuận, đông con, nhiều cháu.

Ngày cưới, nhà trai cử 4 người đi sang nhà gái để cùng nhà gái đưa dâu về nhà chồng. Theo tục lệ, chàng trai không đi cùng sang nhà gái. Đưa đoàn dâu nhà gái gồm bố, mẹ, chú, bác. Cô, dì, anh, chị và bạn bè của cô dâu; một phù dâu cùng 4 người nhà trai. Trên đường về nhà trai đoàn đưa dâu phải tuân thủ những kiêng kị nhất định, nếu gặp người vác củi phải lánh sang một bên, nếu có máng nước chắn cao qua đường phải bỏ máng nước đi vì sợ rằng sau này sẽ gặp hạn. Khi về đến gần nhà trai, đoàn đưa dâu tiến vào nhà trai, cùng lúc đó, từ trong nhà trai một ông thổi kèn, một ông đánh chiêng, một ông đánh trống đi thẳng đến chỗ dừng chân của đoàn đưa dâu cúi đầu chào mọi người và mời đoàn đưa dâu theo những người này vào nhà trai.

Đến cửa chính nhà trai,  theo tục lệ, cô dâu và phù dâu phải đứng ở ngoài cửa, ngoảnh mặt ra ngoài đường, chờ cho mọi người vào nhà hết, ông chủ hôn nhà trai bước ra cửa tay cầm một bát nước lã, miệng niệm thần chú, rồi ngậm nước vào mồm thổi phù phù qua người cô dâu, làm như vậy là để trừ khử tà ma không cho nhập vào cô dâu. Sau đó, cô dâu quay lại nhìn vào trong nhà, ông chủ hôn đặt bát nước chính giữa cửa, trên miệng bát có đặt một con dao phay, cô dâu bước qua bát nước đó, cũng có nghĩa mọi điều xui xẻo đã được trừ khử. Theo tục lệ, khi cô dâu vào nhà, chàng rể được một số người trong đám bạn bè dẫn đi chỗ khác để lánh mặt.

Ngay sau khi cô dâu bước qua bát nước, các em của chú rể trải một chiếc chiếu hoa ở cửa chính để cô dâu bước vào, một bà tuổ trung niên làm ăn giỏi, nhà giàu có, đông con được nhà trai đã bố trí sẵn đến bám vào vai phải cô dâu, phù dâu bám vai trai đi thẳng vào buồng. Lúc này, bố mẹ của chàng rể đi mời thuốc và cảm ơn việc đưa dâu của những người nhà gái. Sau đó nhà trai tổ chức ăn uống làm hai lần vào buổi tối.

Ăn lần thứ nhất dành riêng cho nhà gái, mỗi một mâm nhà trai cử một thanh niên đến rót rượu.

Ăn lần thứ hai là họ nhà trai và bạn bè của chú rể.

Hai bên gia đình ăn uống xong, ngồi chơi chờ nhà trai, làm lễ cúng tổ tiên, khoảng 9 giờ tối đội kèn trống đi đón chàng rể về, lễ cúng tổ tiên được tiến hành, trước bàn thờ tổ tiên người ta kê hai chiếc bàn, hai chiếc ghế dài gần bàn thờ tổ tiên, bên trên bày 6 bát, 6 chén, 6 đôi đũa và một bát thịt, trải một chiếu và đặt một chiếc khăn đỏ lên phía đầu chiếu. Chàng rể đứng ở góc bên trái. Cô dâu đứng ở góc bên phải chiếu, cô dâu và chàng rể mỗi người cầm trên tay một chiếc khăn mặt. Trước lúc vào làm lễ cúng tổ tiên  đại diện nhà gái 3 người, nhà trai 3 người vào ngồi vào hàng ghế đã được bày sẵn. Chủ hôn cầm hai chén rượu đưa chéo tay cho cô dâu và chú rể lần lượt uống đổi chén cho nhau. Sau đó, chủ hôn đến đứng cạnh bàn thờ hướng dẫn chàng rể và cô dâu lạy tổ tiên, ông bà, bố mẹ…, (đứng 3 vái, quỳ 3 vái). Vái xong, chủ hôn đọc bài khấn trước bàn thờ tổ tiên. Khấn xong những người ngồi ở hai chiếc bàn ngồi uống rượu. Theo tục lệ, người đến dự đám cưới sẽ lần lượt được mời vào hai bàn cúng để ăn uống theo quy định già vào trước, trẻ vào sau. Cô dâu, chàng rể đứng tại chỗ để vái những người vào ăn uống. Cũng theo tục lệ, trước khi dọn mâm người ta bỏ một ít thức ăn vào một cái bát và rót một ít rượu vào một cái chai đã để sẵn ở trên bàn. Mỗi người được mời vào ăn đều có tiền mừng cho hai vợ chồng trẻ. Sau khi mọi người đã ăn xong, chàng rể và cô dâu ngồi vào bàn ăn uống nốt chỗ thịt, rượu đã để phần. Theo giải thích của người Dao Đỏ, việc cùng nhau ăn cơm và uống chung chén rượu là biểu hiện của tình cảm thủy chung, yêu thương nhau. Sáng hôm sau, nhà trai lại tổ chức bữa ăn nữa để tiễn nhà gái, trước khi nhà gái trở về nhà, chủ hôn gọi hai vợ chồng trẻ đến đứng trước bàn thờ đọc bản cam kết về hôn nhân bằng chữ Hán giữa hai gia đình cho mọi người cùng nghe, có đại diện của trưởng bản và già làng. Văn bản cam kết được làm thành hai bản, mỗi bên giữ một bản. Cũng trong buổi sáng này bố mẹ chàng rể tặng bố mẹ cô dâu 3 - 4 đồng bạc trắng gọi là tiền trả ơn “trái tim bố và tiền sữa mẹ”. Lúc đoàn đưa dâu nhà gái ra về, mỗi người được nhận một phần thịt như đã thỏa thuận ban đầu.

Sau ngày cưới, cô dâu về cư trú bên nhà chồng và chịu sự chi phối của nhà trồng. Tuy nhiên, những trường hợp ở rể đời bên nhà vợ vẫn xảy ra, thường là những gia đình không có con trai. Khi làm rể đời chàng trai phải bỏ tên họ của mình mang tên họ của bố mẹ vợ.     

Hiện nay về cơ bản các bước trong nghi lễ cưới xin của người Dao Đỏ ử xã Quảng Bạch vẫn theo truyền thống, một số thủ tục không thể bỏ được như: làm văn bản cam kết giữa hai gia đình… Tuy nhiên, lễ vật có phần giảm bớt hơn trước, thời gian tổ chức đám cưới xưa kéo dài 3 - 4 ngày, nay diễn ra trong phạm vi 1 - 2 ngày q

 

 

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.